Chủ tịch bị bắt, MTM đạt doanh thu 0 đồng

Công ty Cổ phần Mỏ và Xuất nhập khẩu khoáng sản miền Trung (mã MTM) vừa công bố báo cáo tài chính quý 3/2016. Theo đó, doanh thu bán hàng và dịch vụ của công ty là 0 đồng. Công ty không có nguồn thu nào ngoài 13.000 đồng từ hoạt động tài chính.

Không có doanh thu trong khi vẫn phải trang trải chi phí hoạt động doanh nghiệp khiến công ty lỗ thêm 661 triệu đồng. Luỹ kế 9 tháng năm 2016, công ty lỗ 2,7 tỷ đồng.

Tại ngày 30/9/2016, tổng tài sản của Khoáng sản miền Trung đạt 241 tỷ đồng, tập trung chủ yếu là các khoản phải thu ngắn hạn với gần 236 tỷ đồng. Trong đó, tài sản thiếu chờ xử lý lên tới 160 tỷ đồng. Công ty có khoản nợ khó đòi và phải trích lập dự phòng lên tới 57 tỷ đồng.

Trong đó, phải thu ngắn hạn khách hàng hơn 115 tỷ đồng, phải thu ngắn hạn khác 120 tỷ đồng, tài sản thiếu chờ xử lý gần 160 tỷ đồng. Mặt khác công ty cũng đã trích lập dự phòng khoản phải thu khó đòi hơn 190 tỷ đồng.

Luỹ kế đến hết tháng 9/2016, MTM lỗ gần 57 tỷ đồng.

Trong kỳ họp đại hội cổ đông tháng 9 mới đây, các cổ đông tham gia đã tỏ rõ sự thất vọng vì đã mua vào cổ phiếu của công ty khi còn sốt giá. Lãnh đạo công ty báo cáo, tài sản của công ty hiện là 0 đồng. Một dây chuyền 50 tỷ đồng ghi nhận trong báo cáo nhưng kiểm tra thì không có. Công ty không hoạt động gì đáng kể.

Trước đó, cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an (C46) đã bắt tạm giam ông Trần Hữu Tiệp, Chủ tịch Hội đồng Quản trị công ty để phục vụ điều tra vụ việc có dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Theo tố cáo, Tiệp có dấu hiệu rút ruột vốn góp, chiếm đoạt tài sản, trước khi công ty giao dịch trên sàn UpCoM.

MTM từng là "cổ phiếu ma" khiến nhiều nhà đầu tư sợ hãi. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cuối tháng 6 đã buộc cổ phiếu này ngừng giao dịch chỉ sau hai tháng chào sàn.

Công ty cổ phần Mỏ và Xuất nhập khẩu Khoáng sản miền Trung thành lập năm 2007, hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng... Giá khởi điểm khi lên sàn của 31 triệu cổ phiếu MTM là 14.700 đồng/cổ phiếu.

MTM khi ấy lập tức thu hút vốn với lượng thanh khoản nổi bật trên sàn HNX với giao dịch mỗi phiên lên vài triệu đơn vị. Tuy nhiên, ngay sau đó, thị giá MTM rơi tự do hơn 80% về mức 2.600 đồng khi ngừng giao dịch.

Những mập mờ trong giao dịch đã khiến nhà đầu tư thua lỗ hàng tỷ đồng và tìm đến chi nhánh Hà Nội của công ty trên phố Núi Trúc (quận Ba Đình), song tại đây lại là tòa nhà với một phòng khám tư nhân, một spa chăm sóc sắc đẹp và văn phòng của một công ty về y tế.

Trong khi đó, trở về trụ sở của công ty tại Tp.Vinh (Nghệ An) lại là một quán ăn. Cục Thuế Nghệ An cho biết, công ty này đã ngừng giao dịch chỉ sau vài ngày lên sàn. Đáng chú ý, dù công ty ngừng hoạt động song không thông báo cho cổ đông. Cổ phiếu trên sàn vẫn được giao dịch sôi động, tăng giá cao để lừa đảo nhà đầu tư.

Đọc tiếp »

Ông chủ Ôtô Hoàng Huy có tài sản vượt 4.000 tỷ đồng

Ông Đỗ Hữu Hạ, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Đầu tư dịch vụ Hoàng Huy (Mã HHS) vừa trở thành người giàu thứ năm trên sàn chứng khoán Việt Nam tính đến ngày 21/10.

Cổ phiếu TCH của Công ty Cổ phần Đầu tư Dịch vụ Tài chính Hoàng Huy vừa lên sàn nhưng liên tục tăng trần. TCH chào sàn 5/10 với giá 15.000 đồng/cổ phiếu và đến nay giá đã tăng lên 29.000 đồng/cổ phiếu, tương ứng 93,3%.

Cổ phiếu tăng mạnh đã đưa ông chủ của Ôtô Hoàng Huy vào danh sách người giàu thứ 5 trên sàn chứng khoán Việt Nam.

Tính đến ngày 21/10, ông Đỗ Hữu Hạ sở hữu khoảng 137 triệu cổ phiếu TCH, tương ứng khoảng 3.983 tỷ đồng. Ông sở hữu 4,8 triệu cổ phiếu HHS với giá trị thị trường là 29,6 tỷ đồng. Tổng tài sản chứng khoán của ông Hạ đã lên tới 4.012 tỷ đồng.

Như vậy, ông Hạ chính thức lấy vị trí giàu số 5 trên sàn chứng khoán của bà Phạm Thuý Hằng - Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vingroup. Trong khi đó, năm 2015, ông Hạ chỉ đứng vị trí số 23 với tài sản chưng khoán đạt trên 670 tỷ đồng.

Ông Đỗ Hữu Hạ sinh năm 1955, tại Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Ông tốt nghiệp cử nhân quản lý, vào làm tại Công ty TNHH Thương mại Hoàng Huy từ năm 1995 đến năm 2008 được bổ nhiệm là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của HHS và giữ chức vụ này đến nay.

Hoàng Huy là doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh, sửa chữa các dòng xe tải từ Trung Quốc. Năm 2011, công ty này đã ký hợp tác với Tập đoàn Dongfeng và là tổng đại lý cung cấp các loại xe ôtô DongFeng tại thị trường Việt Nam.

Trong khi đó, TCH có tiền thân là Công ty TNHH Thương mại Hoàng Huy được thành lập năm 1995 với ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất, lắp ráp và kinh doanh xe máy, ôtô tải, xuất nhập khẩu xe du lịch và các xe chuyên dụng và bất động sản địa ốc. TCH là công ty mẹ của HHS với vốn điều lệ khoảng 3.299 tỷ đồng.

TCH sở hữu một công ty con là Công ty Thương mại Hưng Việt và nhiều công ty con trong đó có thương hiệu Ôtô Hoàng Huy.

Ông chủ Ôtô Hoàng Huy có tài sản vượt 4.000 tỷ đồng 1
TCH là công ty mẹ của HHS và sở hữu một loạt công ty con, liên kết.

Đọc tiếp »

Vinalines tiếp tục đứng nhất về lỗ

Vẫn như nhiều năm trước, Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines) tiếp tục dẫn đầu bảng lỗ năm 2015 với 3.346,273 tỷ đồng.

Con số thua lỗ này được Chính phủ báo cáo Quốc hội, trong tổng thể hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp năm 2015.

Với kết quả như trên, ít nhất là liên tục 3 năm, từ 2013-2015, Vinalines đều chiếm giữ ngôi đầu về thua lỗ.

Năm 2013, doanh nghiệp này đứng đầu bảng lỗ với 6.958,4 tỷ đồng, năm 2014 vẫn lỗ 3.478 tỷ đồng.

Sáng 22/10, thảo luận tại tổ về tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có trọng tâm về tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, một số vị đại biểu Quốc hội đã nhắc đến cái tên Vinalines như một điển hình “bết bát” của doanh nghiệp Nhà nước, làm xói mòn lòng tin cuả nhân dân.

Có vị còn đề nghị nên cho những doanh nghiệp tương tự như vậy được “chết”, không nên lâu lâu bơm thêm tí “sữa” để rồi ngắc ngoải.

Cũng khá quen thuộc trong bảng lỗ của các tập đoàn, tổng công ty còn là Tổng công ty Lương thực Miền Nam - lỗ 1.062,833 tỷ đồng, Tổng công ty 15 (Bộ Quốc phòng) - lỗ718,209 tỷ đồng; Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn - lỗ 72,199 tỷ.

Trong danh sách lỗ, còn có Tổng công ty Cà phê Việt Nam (399,316 tỷ đồng), Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (113,621 tỷ đồng); Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện - VTC (102,801 tỷ đồng); Tổng công ty Xăng dầu Quân đội (69,188 tỷ đồng)...

Chính phủ cũng báo cáo chi tiết lỗ lũy kế của các công ty mẹ. Cụ thể, Công ty mẹ - Tổng công ty Lương thực Miền Nam 959,327 tỷ đồng. Công ty mẹ - Tổng công ty Hàng hải Việt Nam 363,031 tỷ đồng. Công ty mẹ - Tổng công ty 15 (Bộ Quốc phòng) 189,415 tỷ đồng.

Lỗ của Công ty mẹ - Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC là 121,872 tỷ đồng, của Công ty mẹ - Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam là 121,362 tỷ đồng.

Công ty mẹ - Tổng công ty Xăng dầu Quân đội lỗ 69,188 tỷ, Công ty mẹ - Tổng công ty Vật tư nông nghiệp lỗ 57,844 tỷ, Công ty mẹ - Tổng công ty Cơ khí Xây dựng là 29,659 tỷ đồng và Công ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn lỗ 0,432 tỷ đồng.

Theo đánh giá của Chính phủ, sau quá trình tái cơ cấu, bước đầu một số tập đoàn, tổng công ty đã hoạt động có hiệu quả và bù đắp lỗ lũy kế của các năm trước, như Tổng công ty Xăng dầu quân đội đạt 267 tỷ đồng, Tổng công ty Cà phê Việt Nam đạt 131 tỷ đồng, Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện - VTC đạt 123 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn đạt 79 tỷ đồng, Tổng công ty Lương thực Miền Nam đạt 26 tỷ và Tổng công ty Cơ khí Xây dựng đạt 47 tỷ đồng.

Đọc tiếp »

103 doanh nghiệp Nhà nước nợ nước ngoài 348.189 tỷ đồng

Lợi nhuận giảm, nợ khó đòi tăng nhưng vẫn hoạt động ổn định, Chính phủ báo cáo Quốc hội về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Thừa uỷ quyền Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng ký báo cáo này.

Bộ trưởng cho biết, tính đến thời điểm kết thúc năm tài chính 2015, có 652 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, trong đó có 7 tập đoàn kinh tế, 76 tổng công ty Nhà nước.

14 tập đoàn, tổng công ty đang lỗ

Như mọi năm, báo cáo của Chính phủ có riêng nội đung về hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, công ty mẹ - công ty con, gồm 103 doanh nghiệp.

Tổng tài sản cuả khối này đang là 2.821.006 tỷ, tăng 4%. Các tập đoàn, tổng công ty có tổng các khoản phải thu là 338.327 tỷ đồng, tăng 6%.

Tỷ lệ nợ phải thu/tổng tài sản năm 2015 là 12%. Trong đó, nợ phải thu khó đòi là 16.715 tỷ đồng, tăng 11% .

Theo báo cáo hợp nhất, các tập đoàn, tổng công ty có tổng số nợ phải trả là 1.547.859 tỷ đồng, tăng 1%, báo cáo tiếp tục phân tích.

Vẫn tính riêng các tập đoàn, tổng công ty, nợ vay từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là 355.819 tỷ đồng, tăng 3%, còn nợ nước ngoài là 348.189 tỷ. Riêng số vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh là 97.179 tỷ đồng.

Chính phủ khái quát, xét tổng thể, các tập đoàn, tổng công ty bảo toàn được vốn chủ sở hữu, hệ số bảo toàn vốn bình quân là 1,08 lần. Hệ số tự tài trợ bình quân (vốn chủ sở hữu/tổng tài sản) theo báo cáo hợp nhất là 0,44 lần.

Báo cáo hợp nhất cho thấy có 14 tập đoàn, tổng công ty còn lỗ lũy kế là 6.165 tỷ đồng và 9 công ty mẹ còn lỗ lũy kế là 1.912 tỷ.

Vẫn ổn định

Các số liệu về sản xuất, kinh doanh trong báo cáo đều tính đến hết năm tài chính 2015 và cùng so sánh với kết quả của 2014.

Theo đó, tổng tài sản của các doanh nghiệp là 3.043.687 tỷ đồng, tăng 1% còn vốn chủ sở hữu là 1.376.263 tỷ đồng, tăng 8%.

Tổng doanh thu của toàn khối đạt 1.588,326 tỷ đồng, tương đương 2014 nhưng riêng 7 tập đoàn lại giảm 3%, chỉ đạt 960.795 tỷ.

Bộ trưởng Tài chính cũng cho biết, lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp đạt 161.431 tỷ đồng, giảm 11% so với thực hiện 2014.

Riêng khối tập đoàn giảm đến 20%, chỉ đạt 101.435 tỷ đồng. Lợi nhuận của 7 "ông lớn" chiếm 63% tổng lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp toàn quốc.

Những chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp Nhà nước cũng đều đi xuống.

Cụ thể, tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2015 của khối tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con là 12% (năm 2014 là 15%). Tỷ suất Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản bình quân năm 2015 của khối này là 5,3% (năm 2014 là 6,3%).

Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp là 246.038 tỷ đồng, giảm 5%.

Với kết quả trên, Chính phủ đánh giá hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và công tác chi nhằm thực hiện các chính sách an sinh xã hội của địa phương.

Đọc tiếp »

Thoái vốn Nhà nước, thu gần 5.000 tỷ trong 9 tháng

Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp vừa có báo cáo về tình hình tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước 9 tháng năm 2016.

Theo đó, trong 9 tháng đầu năm, cả nước đã cổ phần hoá 48 doanh nghiệp Nhà nước và 3 đơn vị công lập.

Đây là các doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông, Bộ Xây dựng, Tập đoàn Công nghiệp Cao su, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước, Tổng công ty Lương thực Miền Nam.

Ngoài ra, Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp tiến hành giải thể 10 doanh nghiệp, phá sản 1 doanh nghiệp và bán 1 doanh nghiệp.

Về thoái vốn Nhà nước, các bộ ngành đã tiến hành bán cổ phần tại doanh nghiệp, đạt giá trị 4.993 tỷ đồng, trong khi giá trị sổ sách là 2.809 tỷ đồng.

Trong đó, nhiều thương hiệu “vang bóng một thời” đã bán được giá cao.

Chẳng hạn, Nhà nước đã bán 52% vốn tại Khách sạn Kim Liên với giá 1.000 tỷ đồng, trong khi giá trị phần vốn gốc chỉ là 30,9 tỷ.

20% Nước khoáng Vĩnh Hảo cũng được sang tay với giá 109 tỷ đồng, trong khi giá gốc là 16,3 tỷ.

Đối với các công ty nông, lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã được Thủ tướng phê duyệt phương án sắp xếp 244 doanh nghiệp, trong đó Nhà nước nắm giữ 100% vốn tại 14 công ty, giữ vốn trên 50% đối với 59 doanh nghiệp, còn lại tuỳ thực tế nắm giữ vốn dưới 50%. Có 37 doanh nghiệp sẽ được chuyển thành công ty TNHH hai thành viên, đồng thời giải thể 28 doanh nghiệp.

Về đất đai, tổng diện tích đất các công ty nông, lâm nghiệp quản lý là 2,37 triệu ha. Sau sắp xếp sẽ giữ lại khoảng 1,9 triệu ha, còn lại giao về các địa phương quản lý.

Đọc tiếp »

Số doanh nghiệp Nhà nước giảm gần 2/3 sau 5 năm

Những năm gần đây, cứ mỗi cuối năm, Chính phủ đều báo cáo Quốc hội về tình hình doanh nghiệp Nhà nước, trong đó cổ phần hoá là một nội dung quan trọng.

Ở báo cáo kỳ này, Chính phủ đánh giá, trong giai đoạn 2011 - 2015 và 9 tháng năm 2016, Chính phủ, Thủ tướng, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty và các doanh nghiệp Nhà nước đã tích cực thực hiện đẩy mạnh cổ phần hóa và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Như, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã và đang được đổi mới, sắp xếp, thu gọn, từ chỗ năm 2010 còn gần 1.500 doanh nghiệp Nhà nước, đến hết năm 2015 chỉ còn 652, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, đảm bảo cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng.

Hay, công tác cổ phần hóa đã góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Hiện nay, đa số các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là các công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước (khoảng 450/700 doanh nghiệp niêm yết).

Với doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa giai đoạn 2011-2015, kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2015 đều tăng hơn so với năm trước khi cổ phần hóa.

Cụ thể: vốn điều lệ tăng 72%; tổng tài sản tăng 39%; vốn chủ sở hữu tăng 60%; doanh thu tăng 29%; lợi nhuận trước thuế tăng 49%; nộp ngân sách tăng 27%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%.

Báo cáo cũng nêu một số tồn tại, như tiến độ cổ phần hoá của một số bộ, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu, tỷ lệ vốn Nhà nước ở các công ty cổ phần còn cao, việc thoái vốn, giảm tỷ lệ vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp còn chậm....

Những tồn tại trên, bên cạnh nguyên nhân khách quan có nguyên nhân chủ quan. Trong đó, một số bộ, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp, cổ phần hóa.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ ở các cấp, các ngành và các doanh nghiệp về chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn tư tưởng e ngại, lo lắng về vị trí và vai trò lãnh đạo sau cổ phần hóa, làm ảnh hưởng đến tiến độ của quá trình cổ phần hóa.

Nhưng, cũng như các báo cáo trước, ai nhận thức chưa tốt, nơi nào chậm, trách nhiệm ra sao... là những thông tin không tìm được trong báo cáo.

Trong định hướng đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn tới, Chính phủ thêm một lần đề cập việc tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước trong việc thực hiện phương án cổ phần hóa các doanh nghiệp đã được phê duyệt, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng cần tập trung chỉ đạo hoàn thành theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt.

Chính phủ cũng tái khẳng định sẽ xử lý nghiêm đối với lãnh đạo doanh nghiệp không thực hiện hoặc không thực hiện có hiệu quả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp.

Đọc tiếp »

Tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã thoái vốn 11.517 tỷ

Lũy kế giai đoạn 2011 - 2015 và 9 tháng đầu năm 2016, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước đã thoái 11.517 tỷ đồng, thu về 11.183 tỷ.

Thông tin nói trên được Chính phủ nêu tại báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, gửi Quốc hội.

Thoái vốn đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạy cảm, gồm chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính, bất động sản và quỹ đầu tư là một phần nội dung của báo cáo này.

Cụ thể, Chính phủ cho biết, trong giai đoạn 2011- 2015, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty đã thoái được 11.036 tỷ đồng, thu về 10.742 tỷ đồng.

Lý do số thu về giảm so với sổ sách là do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thoái 800 tỷ đồng và Tổng công ty Lương thực Miền Nam thoái 1,3 tỷ đồng đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng.

Trong 9 tháng đầu năm 2016, khối này tiếp tục thoái được 481 tỷ đồng, thu về 441 tỷ đồng. Giá trị thu về thấp hơn giá trị đã đầu tư do Tổng công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ thoái 100,6 tỷ đồng tại khu biệt thự vườn Chánh Mỹ, thu về 18,3 tỷ đồng.

Riêng thoái vốn của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIS), Chính phủ cho biết trong giai đoạn 2011-2015, SCIC đã thực hiện bán vốn tại 368 doanh nghiệp, trong đó bán hết vốn Nhà nước tại 336 doanh nghiệp, bán bớt vốn nhà nước tại 30 doanh nghiệp và bán quyền mua tại 2 doanh nghiệp.

Tổng giá trị thu về đạt 6.998 tỷ đồng, gấp 2,4 lần giá trị đầu tư (2.940 tỷ đồng), thặng dư bán vốn là 4.058 tỷ đồng.

Còn 9 tháng đầu năm 2016, SCIC đã bán vốn tại 54 doanh nghiệp với giá trị là 1.442 tỷ đồng, thu về 3.818 tỷ đồng, thặng dư bán vốn là 2.376 tỷ đồng.

Lũy kế giai đoạn 2011 - 2015 và 9 tháng năm 2016, SCIC đã thoái 4.382 tỷ đồng, thu về 10.816 tỷ đồng (gấp 2,5 lần giá trị đầu tư), thặng dư bán vốn 6.434 tỷ đồng.

Đánh giá chung, Chính phủ cho rằng quá trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh chính, trọng tâm là thoái vốn tại 5 lĩnh vực nhạy cảm còn chậm, đặc biệt là ngân hàng và bất động sản.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ xác định sẽ thực hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp và vốn của các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào ngành không phải ngành nghề kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành nghề kinh doanh chính theo quy định về tiêu chí phân loại , doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Đọc tiếp »

Sáu nhà máy thuỷ điện lớn được xây cơ chế giá đặc thù

Bộ Công Thương vừa được Chính phủ giao cho việc xây dựng cơ chế đặc thù với 6 nhà máy điện của Việt Nam. Đây là những nhà máy có công suất lớn, đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội quốc phòng và an ninh.

Danh sách 6 nhà máy gồm: Thủy điện Sơn La (công suất lắp đặt 2.400 MW), Thủy điện Hòa Bình (1.920 MW), Thủy điện Lai Châu (1.200 MW), Thủy điện Italy (720 MW), Thủy điện Trị An (400 MW), Thủy điện Tuyên Quang (342 MW).

Theo đó, Bộ Công Thương sẽ có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các cơ chế giá điện, cơ chế đặc thù trong vận hành và tham gia thị trường điện của các nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đồng thời, Tập đoàn Điện lực Việt Nam nghiên cứu, đề xuất mô hình tổ chức và quản lý sản xuất - kinh doanh đối với các nhà máy điện lớn.

Bộ Công Thương xem xét, quyết định danh mục các nhà máy điện phối hợp vận hành với các nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh được phê duyệt.

Chủ đầu tư hoặc đơn vị quản lý vận hành nhà máy điện lớn này phải có trách nhiệm tổ chức xây dựng các phương án bảo vệ an toàn công trình trong quá trình vận hành theo quy định hiện hành để đảm bảo an ninh, an toàn nhà máy điện, phòng tránh và ứng phó kịp thời đối với các sự cố có thể xảy ra gây ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.

Bộ Công Thương có trách nhiệm rà soát, đánh giá các nhà máy điện để đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt bổ sung vào danh mục các nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đọc tiếp »

Bộ Tài chính không muốn giảm thuế cho TKV

Bộ Tài chính vừa chính thức có ý kiến phản hồi kiến nghị Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) về việc giảm thuế cho doanh nghiệp này nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong công văn do Thứ trưởng Vũ Thị Mai ký gửi Bộ Công Thương, Bộ Tài chính cho hay, về giải pháp giảm thuế, hiện nay, mức thuế của tài nguyên đối với mặt hàng than là 10% và 12%, quy định tại Nghị quyết số 1084/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do đó, việc xem xét sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, mức thuế suất tài nguyên quy định vừa mới ban hành nên cần có thời gian để tổng kết đánh giá. Mặt khác, việc đề nghị thay đổi mức thuế suất của từng sắc thuế căn cứ trên kiến nghị của một đơn vị cần được cân nhắc kỹ, nhất là trong bối cảnh ngân sách Nhà nước đang khó khăn.

Trong khi đó, theo báo cáo của TKV, sản lượng khai thác hằng năm của 3 mỏ Vàng Danh, Uông Bí, Năm Mẫu là 8,5 triệu tấn than, trong đó khoảng 35% (tương đương 3 triệu tấn than) là than có chất lượng cao, trong nước ít có nhu cầu sử dụng.

Hiện nay, giá than nhập khẩu thấp hơn giá bán trong nước nên các nhà máy điện, xi măng giảm sản lượng mua từ TKV nên lượng tồn kho tăng, trong khi lượng than xuất khẩu theo kế hoạch tính cho giai đoạn 2017 - 2019 là 2 triệu tấn/năm.

Do đó, Thứ trưởng Vũ Thị Mai kiến nghị Bộ Công Thương xem xét tăng kế hoạch xuất khẩu cho giai đoạn 2017 - 2020 lên 3 - 4 triệu tấn/năm, bởi đây là giải pháp có tính khả thi hơn vì giảm được lượng than tồn kho mà trong nước ít có nhu cầu sử dụng.

Theo Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) Nguyễn Khắc Thọ, hiện giá than thế giới đã tăng so với những tháng đầu năm và tiệm cận dần với giá sản xuất trong nước. Vì vậy, dự kiến từ nay đến hết năm 2016, lượng than nhập khẩu sẽ giảm dần, nếu có chỉ là các doanh nghiệp thực hiện nốt các hợp đồng đã ký.

Việc tiêu thụ than tồn kho, ông Thọ cũng cho rằng cần phải tăng lượng xuất khẩu, phải tạo được thị trường và có cơ chế về giá, giá cao sẽ không tiêu thụ được.

Theo Tổng cục Hải quan, tính đến 15/9, tổng lượng nhập khẩu than là 10,1 triệu tấn với kim ngạch 629,5 triệu USD. Những thị trường cung ứng than lớn cho Việt Nam gồm Australia, Nga, Indonesia và Trung Quốc. Những năm qua, ngành than liên tục kêu khó. TKV cho rằng, than trong nước kém cạnh tranh hơn so với than nhập khẩu chủ yếu do thuế tài nguyên của Việt Nam cao hơn các nước như Indonesia, Autralia, Trung Quốc từ 5-7%.

Trong khi giá than thế giới giảm thì các loại thuế, phí than trong nước lại tăng, chiếm khoảng 15%. TKV đã gửi văn bản kiến nghị xem xét giảm thuế tài nguyên nói chung và thuế tài nguyên đối với sản phẩm than nói riêng bằng mức các nước trong khu vực. Cụ thể, than hầm lò 5%, than lộ thiên 7%, không tính phí môi trường trên cả đất đá thải ra trong quá trình khai thác.

Đầu tháng 10 vừa qua, trên cơ sở đề nghị của TKV, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã giao Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với các Bộ: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xem xét, đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Tập đoàn TKV.

Trong đó lưu ý các chính sách về các loại thuế liên quan tới ngành than như thuế suất, giá tính thuế tài nguyên và thuế nhập khẩu than, trong giai đoạn khó khăn để bảo đảm cạnh tranh, giữ vững thị trường và năng lực sản xuất của ngành than; các giải pháp về tái cấu trúc của Tập đoàn TKV để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Đọc tiếp »

Doanh nghiệp điện tử Việt như “lâu đài cát”

Ngành điện tử được ví như một “lâu đài cát” khi nó rất đẹp, đóng góp lớn cho nền kinh tế cả về số việc làm và ngoại tệ thu về nhưng đã là “lâu đài cát” thì nó cũng rất dễ đổ vỡ. Bởi sự thiếu bền vững khi số lượng phát triển nhưng không đi kèm với chất lượng…

Ví von này được ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra tại Đối thoại chính sách cấp cao về “Thúc đẩy việc làm tốt hơn, tăng cường tuân thủ pháp luật và tiêu chuẩn lao động của ngành điện tử Việt Nam trong bối cảnh TPP và các FTA”, do VCCI phối hợp với Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) tổ chức ngày 29/9/2016.

Quy mô rất nhỏ

Theo ông Rene Robert, chuyên gia ILO Bangkok cho biết, số lượng công nhân trong ngành này tại Việt Nam đã tăng hơn 7 lần, từ 46.000 lao động năm 2005 lên hơn 325.000 năm 2013. Đây là ngành công nghiệp mà các doanh nghiệp FDI có đóng góp chủ đạo. 99/100 doanh nghiệp lớn nhất là các doanh nghiệp FDI, chỉ duy nhất một doanh nghiệp còn lại đứng thứ 100 là doanh nghiệp nhà nước.

“Lao động trong ngành này là lao động kỹ năng thấp, lắp ráp hàng loạt. Các doanh nghiệp FDI lựa chọn Việt Nam để đầu tư chủ yếu do nhân công rẻ và dồi dào. Đa phần lao động trong các doanh nghiệp điện tử là nữ và còn rất trẻ, chiếm gần 80%”, ông Rene Robert nói.

Ngược lại với quy mô của doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp điện tử trong nước có quy mô rất nhỏ, trung bình chỉ 24 nhân công so với con số gần 630 nhân công ở các doanh nghiệp FDI, chiếm khoảng 4% tổng số việc làm trong ngành này. Đồng thời, các doanh nghiệp điện tử trong nước cũng thiếu sự hội nhập với thế giới hơn so với doanh nghiệp FDI nên hiệu quả kinh tế bị giới hạn.

Chia sẻ vấn đề này, ông Phạm Minh Huân, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, các doanh nghiệp FDI vào nước ta chỉ sử dụng lao động giá rẻ, trình độ thấp, lắp ráp là chủ yếu, ngay cả Samsung cũng vậy. Đây là công đoạn thấp nhất trong chuỗi giá trị của ngành điện tử trên thế giới.

Theo ông Vũ Tiến Lộc, ngành điện tử có sự phát triển về số lượng nhưng lại không đi kèm với chất lượng. Điều này được biểu hiện qua những đặc điểm như đây là ngành gia công, lắp ráp; thế độc chiếm của doanh nghiệp FDI; lao động tay nghề thấp, chủ yếu sử dụng lao động nữ và trẻ; không có khả năng kết nối giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI…

Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam để phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, điện tử… Tuy nhiên, gần đây có một số dự báo về tình trạng mất việc làm trong ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động tại các nước đang phát triển với tác động của cuộc cách mạng công nghiệp mới, đó là thay đổi quy trình, công nghệ sản xuất, logistics, phương thức phân phối.

Đặc biệt là sự tham gia của người máy vào trong quá trình thao tác lắp ráp đơn giản vì chi phí người máy đang rẻ.

“Có thể nói, nền công nghiệp sử dụng nhiều lao động của Việt Nam đang đứng trước thách thức to lớn, vừa cạnh tranh đối với người máy và cả các nước có lao động rẻ hơn như Campuchia, Myanmar…gây ra tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, và ngành điện tử cũng không nằm ngoài thách thức này”, ông Lộc nhấn mạnh.

Cần trực tiếp đối thoại

Trước thực trạng trên, các đại biểu cho rằng các ngành chức năng Việt Nam cần có chính sách riêng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện để doanh nghiệp có đơn hàng thường xuyên, ổn định.

Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận thì mới thúc đẩy việc tạo ra việc làm mới và cải thiện môi trường làm việc của người lao động. Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết dạy nghề giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng là giải pháp được nhiều đại biểu đề cập nhằm nâng cao chất lượng lao động.

Ông Rene Robert nhấn mạnh, đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn xa hơn về chiến lược sử dụng lao động, coi điều kiện lao động tốt là yếu tố giúp gia tăng cạnh tranh và đem lại lợi nhuận.

Cùng đó, thanh tra lao động Việt Nam cần xây dựng bộ công cụ đánh giá việc tuân thủ pháp luật lao động dành riêng cho ngành điện tử. Đồng thời có cơ chế, chế tài yêu cầu các doanh nghiệp thực thi tốt pháp luật lao động để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho công nhân.

Quan trọng nhất, doanh nghiệp, người lao động, các cơ quan liên quan cần trực tiếp đối thoại để tìm ra giải pháp tốt nhất cho việc phát triển doanh nghiệp và nâng cao chất lượng môi trường làm việc cho người lao động.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, sản phẩm ngành điện tử là nguồn xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau sản phẩm ngành may mặc.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, số lượng công nhân tham gia ngành điện tử tăng rất nhanh, từ 46.000 công nhân (năm 2005) lên 327.000 công nhân (2013). Trong thời gian tới, điện tử vẫn được xác định là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam.

Đọc tiếp »

BlackBerry và con đường từ “hero” thành “zero”

Từ một văn phòng nhỏ ở Waterloo, bang Ontario của Canada, BlackBerry đã vươn mình trở thành một trong những thương hiệu hàng đầu thế giới, làm thay đổi cách thức liên lạc của hàng triệu người trên thế giới.

Nhưng rất tiếc, thành công đó chỉ thoáng qua.

Sau vài năm, từ chỗ là “hero” (“người hùng”), BlackBerry bỗng chốc gần như chỉ còn là “zero” (“số 0”). Từ chỗ là kẻ thống trị smartphone, BlackBerry bị gạt sang bên lề bởi chính những đối thủ từng bị họ đánh giá thấp.

Theo tờ Wall Street Journal, sau khi đạt đỉnh doanh số 52,3 triệu sản phẩm smartphone vào năm 2011, BlackBerry chỉ còn bán được 3,2 triệu sản phẩm trong năm tài khóa gần nhất. Mức doanh số này đồng nghĩa với việc BlackBerry gần như biến mất khỏi thị trường smartphone toàn cầu.

Và vào ngày 28/9 vừa qua, BlackBerry tuyên bố chấm dứt việc tự thiết kế và sản xuất điện thoại. Kể từ nay, hoạt động này sẽ được công ty thuê ngoài (outsource).

Walll Street Journal nhận định, thất bại của BlackBerry, trên nhiều phương diện, là sản phẩm của chính thành công quá chóng vánh và thiếu chắc chắn của một công ty nhỏ, đã bất ngờ vụt lớn và lọt vào hãng ngũ các “đại gia” vào đầu thập niên 2000, sau khi tung ra thiết bị giao tiếp e-mail cầm tay đầu tiên của thế giới.

Thành công đến với BlackBerry nhanh đến nỗi công ty chỉ có một nhà máy sản xuất này cảm thấy choáng ngợp. Hãng đã phải chạy đua với nhu cầu gia tăng chóng mặt từ thị trường ở khắp mọi nơi trên thế giới và phải mở thêm một loạt cơ sở mới. Có những thời điểm, doanh số quý sau của BlackBerry tăng tới 20% so với quý trước đó, khiến họ phải ồ ạt tuyển dụng nhân sự mới.

Chính những sức ép này đã khiến lãnh đạo của BlackBerry xao nhãng chạy đua công nghệ.

Sau thành công ban đầu, Mike Lazaridis - nhà sáng lập hãng Research In Motion (RIM), chủ sở hữu thương hiệu BlackBerry - và nhóm của ông từng sáng tạo ra những kỹ thuật mới giúp bảo toàn băng thông trên các mạng dữ liệu yếu. Và họ đạt được một thành công khác: một bàn phím đa chức năng giúp người dùng dễ dàng điều hướng giao tiếp bằng e-mail trên điện thoại.

Nhưng trong lúc BlackBerry tập trung đáp ứng nhu cầu gia tăng đối với sản phẩm, thì họ không còn chú ý nhiều tới các đối thủ cạnh tranh. Và những đối thủ này đã vượt qua BlackBerry rất nhanh chóng.

Khi tháo tung chiếc điện thoại iPhone đầu tiên của Apple vào năm 2007, Lazaridis đã sửng sốt trước sức mạnh điện toán bên trong thiết bị có vẻ ngoài hào nhoáng này. Lazaridis nói với nhóm của ông rằng thật vô lý, rằng các mạng viễn thông không thể nào “chịu” nổi lượng video, ảnh, và truy cập Internet mà Apple hứa với người sử dụng iPhone.

Lazaridis và các cộng sự của ông đã không hiểu được rằng Apple đã thay đổi luật chơi: một thỏa thuận độc quyền giữa Apple với AT&T đã dẫn tới việc nhà mạng này nâng cấp hệ thống. Việc nâng cấp cho phép người dùng iPhone, sau một thời gian ngắn đối mặt với tình trạng cuộc gọi bị rớt, có thể chơi game và tải các ứng dụng - điều mà BlackBerry không thể mang lại cho người dùng trong nhiều năm.

Thị trường smartphone toàn cầu lại thay đổi lần nữa vào năm 2007, khi Google tuyên bố sẽ cấp phép miễn phí hệ điều hành Android cho các nhà sản xuất smartphone, mở đường cho các hãng điện thoại khác của thế giới như Samsung tung ra những mẫu smartphone giá mềm, hút khách hàng khỏi BlackBerry.

Đến năm 2012, Samsung đã trở thành hãng smartphone lớn nhất thế giới về doanh số.

Đối mặt với khó khăn ngày càng lớn, giá trị vốn hóa lao dốc và thị phần thu hẹp chóng mặt, đến năm 2013, cả Lazaridis và Giám đốc Điều hành Jim Balsillie cùng rời khỏi BlackBerry.

Sự sa sút của BlackBerry nghiêm trọng đến nỗi, cách đây mấy năm, chính Lazaridis cũng thừa nhận rằng những chiếc smartphone của hãng này đang dần trở nên lỗi thời. Quá lo lắng về việc điện thoại BlackBerry sẽ đến lúc bị ngừng sản xuất, vào năm 2013, Lazaridis đã mua lại toàn bộ số điện thoại BlackBerry tồn kho của một công ty bán lẻ đồ điện tử gần trụ sở công ty.

Lazaridis, người khai sinh điện thoại BlackBerry vào năm 1998, nói rằng ông phải tích trữ những chiếc smartphone này vì “ý nghĩ khủng khiếp nhất đối với tôi là tôi sẽ không có được một chiếc BlackBerry nào nữa”.

Thị phần của BlackBerry trên thị trường smartphone toàn cầu giờ đã giảm dưới 1%, một thị phần “tí hon” được duy trì bởi những người dùng trung thành không muốn từ bỏ bàn phím đã trở thành biểu tượng của dòng điện thoại này.

Cũng giống như Lazaridis, Balsillie cũng là một người dùng trung thành với BlackBerry. Chiếc điện thoại mà ông yêu thích là chiếc BlackBerry Classic.

“Khi tôi chết, người ta sẽ phải gỡ nó khỏi bàn tay lạnh giá của tôi”, ông từng nói trước khán giả ở Toronto hồi năm 2015.

Đọc tiếp »

Số doanh nghiệp Việt Nam “cải tử hoàn sinh” tăng mạnh

Trong 9 tháng đầu năm nay, Việt Nam có 20.510 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 59,6% so với cùng kỳ (9 tháng năm 2015 tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2014), nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng đầu năm lên con số gần 102.000.

Số liệu này được trích từ báo cáo về tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 9 và 9 tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê.

"Điều này cho thấy khung khổ pháp lý mới cùng với các giải pháp của Chính phủ trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đã phát huy hiệu quả, giúp doanh nghiệp tìm thấy hướng đi, cơ hội phát triển mới", báo cáo nêu.

9 tháng, hơn 81 nghìn doanh nghiệp thành lập mới

Cũng theo báo cáo nói trên, tháng 9/2016, cả nước có 8.047 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 76.200 tỷ đồng, giảm 13,3% về số doanh nghiệp nhưng tăng 7,3% về số vốn đăng ký so với tháng trước.

Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 9,5 tỷ đồng, tăng 23,8%; tổng số lao động đăng ký trong tháng của các doanh nghiệp thành lập mới là 71.500 người, giảm 36,7% so với tháng trước.

Trong tháng 9, cả nước có 1.799 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 5.426 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 6,6%; có 886 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, giảm 16,2% so với tháng trước.

Luỹ kế 9 tháng, cả nước có 81.451 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 629.100 tỷ đồng, tăng 19,2% về số doanh nghiệp, và tăng 49,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015.

Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,7 tỷ đồng, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2015.

Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng là 928.700 người, bằng 92,9% cùng kỳ.

Theo Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 9 tháng đầu năm nay ở hầu hết các ngành, lĩnh vực đều tăng so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, một số ngành tăng mạnh cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký, như kinh doanh bất động sản tăng 99,1% về số doanh nghiệp và tăng 242,5% về vốn đăng ký; thông tin và truyền thông tăng 14,5% và tăng 173,9%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 19,2% và tăng 113,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23,1% và tăng 110,7%; hoạt động dịch vụ khác tăng 40,3% và tăng 112,5%.

Có một ngoại lệ là lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 9 tháng lại giảm 32,6% so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký cũng giảm 23,2%.

Mỗi ngày 198 doanh nghiệp giải thể, chấm dứt hoạt động

Tuy nhiên, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 9 tháng là 8.365 doanh nghiệp, tăng 20,2% so với cùng kỳ. Trong đó, có 7.812 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 93,3% và tăng 20%

Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 9 tháng đầu năm nay là 45.097 doanh nghiệp, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 16.294 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, tăng 31% và 28.803 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 18,1%.

Như vậy, tổng số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể trong 9 tháng là 53.462 doanh nghiệp, bình quân 198 doanh nghiệp/ngày.

Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, có 6.269 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 38,5%); 5.617 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 34,5%); 2.738 công ty cổ phần (chiếm 16,8%); 1.669 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 10,2%) và 1 công ty hợp danh.

Đối với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có 12.000 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,7%); 8.980 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 31,2%); 5.210 công ty cổ phần (chiếm 18,1%) và 2.613 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,1%).

Theo lĩnh vực hoạt động, trong 9 tháng đầu năm nay, hầu hết ở các ngành nghề kinh doanh có số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể đều giảm so với cùng kỳ năm trước, chỉ riêng ngành nghệ thuật vui chơi và giải trí và ngành khai khoáng là tăng so với cùng kỳ năm 2015.

Điều tra của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy cảm nhận của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý 3/2016.

Theo đó, có 80,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý 3 khá ổn định và tốt hơn quý trước (có 38,8% doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 41,5% doanh nghiệp đánh giá ổn định). Chỉ có 19,7% số doanh nghiệp đánh giá còn gặp khó khăn.

Đọc tiếp »

Bộ trưởng “chỉ sợ quy định không hợp lòng dân”

Bộ Công Thương vừa phát đi thông báo về nội dung trong một cuộc họp của Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh với thành viên ban soạn thảo Nghị định 19, về quản lý hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản, tổ chức ngày 30/9.

Trong đó, nhiều ý kiến tranh cãi về các quy định chưa phù hợp với thực tế, thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp… đã được đưa tra bàn luận.

Không ngại giải trình với Chính phủ

Trong thông báo, Bộ trưởng Tuấn Anh yêu cầu Vụ Công nghiệp nặng có văn bản trả lời Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về những ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị định, điểm nào chưa được thì tiếp thu chỉnh sửa hoặc bãi bỏ, quy định nào giữ phải có giải trình rõ ràng.

“Mục đích xây dựng nghị định của chúng ta là tốt nhưng cách đặt vấn đề của chúng ta vẫn chưa sát cần phải tư duy lại và thay đổi. Luật đặt ra là quản lý có hiệu quả, tạo hành lang pháp lý bảo vệ và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển chứ không phải đẻ ra một loại giấy phép con mới để hành doanh nghiệp, cần phải làm rõ mục tiêu quản lý của nghị định này”, ông nhấn mạnh.

Bộ trưởng chia sẻ, những ngày qua ông đã đọc tất cả các ý kiến đóng góp từ VCCI, báo chí, doanh nghiệp… Cá nhân ông cảm thấy đau xót trước những ý kiến cho rằng Bộ Công Thương vì doanh nghiệp lớn giết chết doanh nghiệp nhỏ hay luật xây dựng trên cơ sở lợi ích nhóm…

Theo ông, mục tiêu xây dựng dự thảo là tốt đẹp nhằm tạo cơ sở cho doanh nghiệp phát triển, bảo vệ môi trường, an toàn người lao động, bảo tồn tài nguyên quốc gia.

Mục đích tốt đẹp nhưng bị nhìn nhận sai như vậy, có phần lỗi của ban soạn thảo khi chưa công khai minh bạch thông tin, chưa rộng đường dư luận để mọi thành phần trong xã hội có thể đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo nghị định.

“Khi vẫn còn những phàn nàn, ý kiến trái chiều chưa đồng thuận tức là vẫn còn vấn đề ban soạn thảo cần tiếp thu, cân nhắc, chỉnh sửa. Chúng ta không sợ chậm ban hành. Tôi không ngại việc phải lên giải trình với Chính phủ vì việc chậm ban hành, mà chỉ sợ quy định đưa ra không hợp lòng dân, không đúng mục tiêu về Chính phủ kiến tạo, xóa bỏ các rào cản để doanh nghiệp phát triển”, Bộ trưởng Công Thương nhấn mạnh.

Lần thứ ba lấy ý kiến

Nghị định quản lý hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản đã qua hai lần dự thảo với nhiều cuộc họp lấy ý kiến của ban soạn thảo và các bộ, ban ngành liên quan.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, khoáng sản là một nguồn lực của quốc gia và là nền tảng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Số liệu từ Liên minh Khoáng sản cho thấy, Việt Nam xếp thứ 15 trên thế giới về diện tích khoáng sản, xếp thứ 65 về tuổi địa chất, có 60/200 loại khoáng sản phổ biến trên thế giới.

Đặc biệt, Việt Nam đứng thứ 7 về khai thác dầu thô ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đóng góp 2,3% tổng sản lượng thiếc và 1,8% tổng sản lượng xi măng thế giới.

Thời gian qua, ngành công nghiệp này tăng trưởng nóng về quy mô với hơn 5.000 điểm mỏ và 60 loại khoáng sản khác nhau, với khoảng 170 doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, các quy định hiện hành chỉ mới điều chỉnh đến hoạt động thăm dò khai thác chứ chưa điều chỉnh đến hoạt động chế biến.

Trong khi đó, khai thác và chế biến khoáng sản tiềm ẩn nhiều yếu tố tác động xấu và nghiêm trọng đến môi trường và ảnh hưởng trên phạm vi sâu rộng như chiếm dụng nhiều đất, sụt lún, biến dạng bề mặt địa hình, biến đổi dòng thủy văn do đổ thải, ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, không khí, bụi, ồn, phóng xạ, chất thải cực độc, thay đổi cảnh quan thiên nhiên, phá hủy hệ sinh thái… tác động trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe cộng đồng và môi trường sinh thái.

Theo Bộ Công Thương, nghị định nói trên ra đời sẽ là cơ sở để nâng cao năng lực của doanh nghiệp ngành khai khoáng, đảm bảo phát triển bền vững, nâng cấp vai trò, trách nhiệm, quản lý Nhà nước về khoáng sản từ khai khai thác đến sử dụng khoáng sản…

Nghị định sẽ tiếp tục được lấy ý kiến đóng góp xây dựng để hoàn thiện dự thảo lần ba, dự kiến vào đầu tháng 10.

Trước đó, nhiều doanh nghiệp gas đã có ý kiến lo lắng Nghị định 19 sẽ “ép chết” hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ, buộc họ phải rời bỏ thị trường. Sự việc nóng lên giữa tuần qua khi Bộ Công Thương tổ chức diễn đàn để người dân, doanh nghiệp được lên tiếng về công tác cải cách thủ tục hành chính của Bộ.

Đọc tiếp »

Ông Vũ Văn Tiền lên tiếng về kế hoạch làm 4 siêu dự án 50 tỷ USD

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Chính thức đề xuất bỏ tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng

Trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sáng 3/10 dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long đã chính thức đề xuất bỏ tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông.

Tội danh này được quy định tại điều 292 Bộ luật Hình sự năm 2015 - một điều luật được nhắc đến nhiều nhất từ khi bộ luật này được ban hành. Đây cũng là điều duy nhất được đề xuất bãi bỏ khi sửa luật.

Chủ nhiệm cơ quan thẩm tra - Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội - Lê Thị Nga cho biết, đa số ý kiến ủy ban tán thành với dự thảo luật về việc bỏ điều này.

Nhưng, cũng có ý kiến đề nghị giữ lại và đưa vào các chương tương ứng quy định hành vi cấm kinh doanh vàng tài khoản (đã được quy định tại Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ); kinh doanh đa cấp bất chính (được quy định tại Nghị định số 45/2014/NĐ-CP của Chính phủ)… trên mạng máy tính, mạng viễn thông vì phạm vi ảnh hưởng, tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội , hậu quả lớn, rất khó khắc phục cần phải có quy định để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời sửa đổi lại cấu thành: mức thu lợi bất chính, doanh thu… cho phù hợp.

Phải rà soát đầy đủ

Ngoài bãi bỏ một điều, phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 lần này liên quan đến 141 điều của bộ luật, gồm 18 điều thuộc phần những quy định chung và 123 điều thuộc phần các tội phạm, trong đó có 43 điều sửa đổi về kỹ thuật, 97 điều sửa đổi về nội dung quy định trong điều luật.

Về tổng thể dự án luật, quan điểm của Chính phủ là sửa đổi, bổ sung ở mức tối đa những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 có lỗi kỹ thuật đã được phát hiện và những nội dung rõ ràng là chưa hợp lý hoặc có thể khó áp dụng trên thực tế liên quan đến một số chính sách cụ thể được thể hiện trong một số điều luật của bộ luật.

Điều này nhằm bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, logic trong các quy định của bộ luật hình sự, góp phần bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật cũng như bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Chính phủ cũng xác định việc sửa đổi không làm thay đổi những chính sách lớn của bộ luật đã và không đặt ra vấn đề mới dẫn đến việc phải sửa đổi, bổ sung các luật khác đang được lùi hiệu lực thi hành cùng Bộ luật Hình sự năm 2015.

Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 cần phải tiếp tục góp phần đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, tờ trình của Chính phủ nêu rõ.

Tán thành với quan điểm của Chính phủ, tuy nhiên, Uỷ ban Tư pháp nhấn mạnh việc sửa đổi phải trên cơ sở rà soát đầy đủ các sai sót của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đồng thời, trong một chừng mực nhất định, một số quy định của bộ luật vẫn phải có văn bản quy định chi tiết của Chính phủ hoặc văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan tư pháp trung ương.

Phân hoá cách xử lý

Liên quan đến phần sửa đổi, bổ sung nội dung, Bộ trưởng Long cho biết một số vấn đề đáng chú ý.

Như, đã điều chỉnh mức định lượng tại các khoản của 64 điều trong đó có 49 điều liên quan đến mức định lượng về tỷ lệ thương tích, tổn hại cho sức khỏe và 15 điều luật liên quan đến các mức định lượng khác thuộc cấu thành một số tội phạm về kinh tế, môi trường, ma túy, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và một số tội khác.

Đặc biệt, dự thảo luật đã điều chỉnh mức định lượng về khối lượng, thể tích các chất ma túy tại các khoản của các điều luật để tránh trùng lặp và phù hợp với thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử từ trước đến nay, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, Chính phủ nhấn mạnh.

Với mức hình phạt, lần sửa đổi này dự thảo luật đã điều chỉnh mức hình phạt trong các khung hình phạt của 12 điều luật liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm an toàn giao thông và trật tự công cộng nhằm bảo đảm phân hóa chính sách xử lý đối với từng trường hợp phạm tội, nhất là giữa trường hợp phạm tội đã gây ra hậu quả với trường hợp phạm tội có khả năng gây ra hậu quả.

Chính phủ cũng đề nghị bổ sung các chất ma túy mới phát hiện (chất XLR-11 được tẩm ướp trong cỏ Mỹ và lá Khat có chứa chất ma túy Cathinone) vào cấu thành các tội phạm về ma túy.

Sau khi nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ thảo luận về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015.

Đọc tiếp »

Sửa nhiều luật về kinh doanh: Thủ tướng tha thiết, nhưng...

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Tháng 11 tới phải báo cáo việc bổ nhiệm con trai cựu Bộ trưởng

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Trương Hòa Bình, liên quan đến việc tuyển dụng, bổ nhiệm ông Vũ Quang Hải.

Theo đó, Phó thủ tướng giao Bộ Công Thương kiểm tra, làm rõ căn cứ pháp lý, điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục liên quan đến việc tuyển dụng, bổ nhiệm Hàm vụ phó, bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, người quản lý doanh nghiệp đối với ông Vũ Quang Hải, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trước ngày 1/11/2016.

Như vậy, đây là lần thứ hai Phó thủ tướng Trương Hòa Bình có ý kiến về vụ việc này. Trước đó, đầu tháng 7 vừa qua, sau khi có chất vấn của Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI), Phó thủ tướng cũng đã yêu cầu Bộ Công Thương xem xét, trả lời các kiến nghị của VAFI.

Tuy nhiên, trong văn bản trả lời chất vấn sau đó, Bộ Công Thương đều khẳng định việc bổ nhiệm ông Vũ Quang Hải là đúng quy trình và chưa có cơ sở để khẳng định ông Hải gây thua lỗ khi làm việc tại Công ty Cổ phần Đầu tư tài chính Công đoàn Dầu khí Việt Nam (PVFI).

Ông Vũ Quang Hải (30 tuổi) - con trai nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng - tùng được bổ nhiệm một loạt các vị trí tại Bộ Công Thương và Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco).

Trong văn bản chất vấn, VAFI cho rằng, trước khi được bổ nhiệm vào các chức vụ trên, ông Vũ Quang Hải “dù không có thành tích gì đặc biệt” cũng đã từng được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc PVFI vào năm 2011 - khi ông mới 25 tuổi. Doanh nghiệp này do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) nắm giữ trên 51% vốn điều lệ.

Trong hai năm ông Hải làm Tổng giám đốc tại đây, PVFI liên tục bị thua lỗ. Cụ thể, năm 2011 lỗ 155 tỷ đồng, năm 2012 lỗ 67 tỷ, trong khi vốn điều lệ của công ty là 300 tỷ. Sau đó, ông Hải được điều động về Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) với chức danh Phó giám đốc Trung tâm Hỗ trợ xuất khẩu.

Sau đó, với một quyết định do Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa ký - ông Hải tiếp tục được Bộ Công Thương giới thiệu về Sabeco với vai trò đại diện phần vốn Nhà nước, thành viên Hội đồng Quản trị, kiêm Phó tổng giám đốc.

Đọc tiếp »

“Gái đẹp” Sabeco trong tầm mắt đại gia nước ngoài

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Công khai thông tin: Hàng loạt tập đoàn, tổng công ty “phớt” lời Thủ tướng

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Việt Nam tăng đột biến lập doanh nghiệp nhờ hai luật mới

Sau một năm thi hành Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức hội nghị tổng kết một năm thi hành hai luật này vào sáng 20/9 tại Hà Nội.

Tại hội nghị, ông Bùi Anh Tuấn, Phó cục trưởng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, năm 2015 có khoảng 95.000 doanh nghiệp thành lập mới.

Và nếu không có gì thay đổi, cuối năm nay, Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử có thể có trên 100.000 doanh nghiệp thành lập mới trong một năm.

Ông Tuấn cho rằng con số doanh nghiệp đăng ký và thành lập mới tăng đột biến đã cho thấy những hiệu quả bước đầu của hai luật trên.

Đại diện Cục Quản lý đăng ký kinh doanh cũng cho biết, tính đến thời điểm này trong năm nay, Việt Nam có 23.950 doanh nghiệp tăng vốn điều lệ với tổng số vốn 690.000 tỷ đồng.

Về doanh nghiệp FDI, trong một năm qua, Việt Nam có gần 2.000 doanh nghiệp thành lập mới, với trên 68.000 tỷ đồng vốn đăng ký.

Bên cạnh đó, theo ông Tuấn, hai luật nói trên đã giúp giảm đáng kể thời gian, chi phí để doanh nghiệp gia nhập thị trường. Tỷ lệ trả hồ sơ đúng hẹn, hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tăng cao.

Cụ thể, trên cả nước có 86% hồ sơ thành lập doanh nghiệp được chấp nhận ngay lần đầu tiên, và 89% hồ sơ được trả đúng hẹn.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sự thay đổi đáng kể nhất là ở thời gian tiếp nhận, xử lý hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh doanh ở các địa phương.

Trung bình thời gian xử lý hồ sơ thành lập doanh nghiệp của cả nước là 2,9 ngày, trong đó, Tiền Giang là địa phương xử lý hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh doanh nhanh nhất cả nước với 1,3 ngày, tiếp đến là Hậu Giang với 1,32 ngày, và Đà Nẵng với 2,52 ngày.

Ông Tuấn cho rằng, với việc giải phóng quyền tự do kinh doanh như trên, Luật Doanh nghiệp đã thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tạo ra làn sóng gia nhập thị trường trong cộng đồng doanh nghiệp.

Nhận xét chung về tình hình thực hiện Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho rằng những con số được tổng kết sau một năm thực thi hai luật trên là thực sự ấn tượng.

“Qua tổng kết này, một lần nữa chúng ta khẳng định Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 đã thực sự đi vào cuộc sống, và những con số kể trên chính là câu trả lời cho những thắc mắc băn khoăn trong quá trình xây dựng luật”, Thứ trưởng bình luận.

Đọc tiếp »

“SCIC sắp bán cổ phần 10% trong Vinamilk”

Chính phủ đã mời một số ngân hàng đầu tư nước ngoài tư vấn về việc bán lại cổ phần Nhà nước trong Tổng công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) - nguồn tin thân cận tiết lộ với hãng Reuters. Đây được xem là một trong những tín hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh tiến trình thoái vốn Nhà nước khỏi các doanh nghiệp chủ chốt.

Reuters cho biết, Cresit Suisse, JPMorgan Chase, Nomura Holding và công ty tư vấn Rothschild là vài trong số những cái tên gần đây nhận được lời đề nghị tư vấn từ Chính phủ Việt Nam.

Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) hiện đang nắm cổ phần 44,7% tại Vinamilk. Nguồn tin của Reuters tiết lộ rằng SCIC dự kiến bán cổ phần khoảng 10%, trị giá khoảng 900 triệu USD ở mức giá thị trường hiện tại. Số cổ phần Nhà nước còn lại sẽ tiếp tục được bán dần.

Những bước đi của Việt Nam nhằm thực hiện lời hứa bán cổ phần Nhà nước trong Vinamilk, doanh nghiệp sữa đang có tốc độ phát triển nhanh chóng, chắc chắn sẽ nhận được sự hưởng ứng tích cực của các nhà đầu tư. Cho tới nay, giới đầu tư vẫn chưa hài lòng với tốc độ chậm chạp, các mục tiêu bị bỏ lỡ, tình trạng quan liêu, những tín hiệu trái chiều… trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam.

Dù nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã bán cổ phần, Chính phủ Việt Nam bị cho là cố tình trì hoãn việc cổ phần hóa những doanh nghiệp có mức độ hấp dẫn cao hơn, hoặc chỉ bán cổ phần ở mức rất nhỏ.

Nguồn tin nói rằng lô cổ phần đầu tiên của Vinamilk được SCIC bán ra có thể đạt mức giá cao hơn so với giá thị trường bởi đã có một số công ty châu Á và quỹ đầu tư cổ phần tư nhân muốn mua.

Vinamilk hiện là doanh nghiệp niêm yết lớn nhất của Việt Nam, với mức vốn hóa gần 9 tỷ USD. Giá trị vốn hóa thị trường của Vinamilk đã tăng 21 lần kể từ khi công ty này bắt đầu niêm yết trên sàn chứng khoán cách đây một thập niên. Năm nay, giá cổ phiếu Vinamilk đã tăng 28% do dự báo về việc SCIC thoái vốn. Hồi tháng 7, Vinamilk đã được gỡ trần sở hữu 49% đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Nguồn tin của Reuters nói rằng, ngoài các nhà tư vấn nước ngoài, Chính phủ Việt Nam còn mời Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) và Công ty Chứng khoán Bản Việt (VCS) tư vấn cho việc bán cổ phần trong Vinamilk.

Chính phủ Việt Nam thừa nhận việc bán cổ phần trong các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm chạp, nhưng các quan chức lập luận rằng quy trình này bị cản trở bởi các quy định chồng chéo đòi hỏi phải có thời gian để tháo gỡ. Cũng có ý kiến cho rằng lãnh đạo các doanh nghiệp Nhà nước thận trọng trong việc bán cổ phần vì lo có thể gây thất thoát kinh tế.

Theo một số nhà phân tích mức nợ công cao, hiện đang gần 65% GDP, là một nhân tố thúc đẩy Chính phủ bán cổ phần trong các doanh nghiệp Nhà nước nhằm có ngân sách cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng và các chương trình phúc lợi xã hội.

Công ty F&N Dairy Investments của tỷ phú ngành bia Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi hiện đã nắm cổ phần 10,9% và có một ghế trong Hội đồng Quản trị của Vinamilk. Nguồn tin nói vị tỷ phú này muốn tăng cổ phần nắm giữ trong Vinamilk.

Lô cổ phần được chào bán lần này không đi kèm với ghế trong Hội đồng Quản trị. Tuy nhiên, nguồn tin nói rằng vấn đề này có thể được đàm phán.

Đọc tiếp »

Thu nhập bình quân nhân viên Viettel đạt hơn 30 triệu/tháng

Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel Tống Viết Trung vừa ký văn bản gửi lên Bộ Quốc phòng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình kinh doanh tập đoàn năm 2015. Theo đó, lần đầu tiên mức thu nhập bình quân nhân viên tập đoàn được tiết lộ.

Theo báo cáo hợp nhất năm 2015, doanh thu của tập đoàn Viettel đạt 216.851 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt trên 34.400 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu tăng lên 110.820 tỷ đồng.

Trong năm qua, tập đoàn cũng nộp ngân sách và đóng thuế khoảng hơn 50.000 tỷ đồng.

Đặc biệt, thu nhập bình quân của nhân viên tập đoàn đạt khoảng 30,5 triệu đồng/tháng, tương ứng 366 triệu đồng một năm. Trong khi thu nhập bình quân của nhân viên công ty mẹ còn cao đạt 30,9 triệu đồng/tháng, tương ứng 371 triệu đồng một năm.

Với mức lương bình quân này, tập đoàn trở thành một trong những doanh nghiệp Nhà nước trả thu nhập cao bậc nhất. Mức thu nhập này chỉ đứng thứ 2 sau mức thu nhập bình quân của nhân viên Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) - gần 37 triệu đồng/người/tháng.

Năm 2016, Tập đoàn Viettel đặt mục tiêu doanh thu 242.924 tỷ đồng (không bao gồm doanh thu khuyến mại), lợi nhuận trước thuế gần 46.500 tỷ đồng. Thu nhập bình quân gần 30 triệu đồng một tháng.

Đáng chú ý, Tập đoàn đã lập kế hoạch dài hạn giai đoạn 2016 -2020 với mục tiêu trở thành tập đoàn viễn thông toàn cầu, một trong 20 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới.

Doanh thu bình quân 400.00 - 500.000 tỷ đồng một năm, lợi nhuận 70.000 - 90.000 tỷ đồng. Năng suất lao động đạt khoảng 3-4 tỷ đồng/người/năm. Thu nhập bình quân đạt 40 - 50 triệu đồng/người/tháng.

Viettel cũng đặt mục tiêu đầu tư ra quốc tế với vùng phủ thị trường từ 500 - 600 triệu người.

Tập đoàn đặt mục tiêu tăng vốn điều lệ lên 300.000 tỷ đồng, từ mức 100.000 tỷ đồng hiện nay.

Đặc biệt, Viettel còn dự định sẽ nghiên cứu, sản xuất để trở thành Tập đoàn công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông công nghệ cao. Từ năm 2016, Tập đoàn sẽ triển khai xây dựng đề án tổ hợp công nghiệp công nghệ cao, sản xuất thiết bị viễn thông.

Tuy nhiên, Viettel cũng thừa nhận thị trường viễn thông đã đến giai đoạn bão hoà, các sản phẩm truyền thống như thoại, tin nhắn đang bị suy giảm.

Đến nay, Viettel đã đầu tư ra 9 thị trường nước ngoài: Campuchia với mạng Metfone, mạng Unitel tại Lào, mạng Natcom ở Haiti, mạng Movitel ở Mozambique, mạng Nextel ở Cameroon, mạng Bitel ở Peru… Hiện tập đoàn đang có 13 công ty con với tỷ lệ sở hữu từ 50 -100% vốn điều lệ.

Những năm gần đây, lương thưởng ở các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp của Nhà nước luôn ở mức cao, tăng nhanh so với thị trường. Cũng vì vậy, quan điểm doanh nghiệp Nhà nước lương thấp đã dần thay đổi.

Ở bức tranh toàn cảnh hơn, theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, lương bình quân của khối doanh nghiệp Nhà nước dẫn đầu năm 2015 với khoảng 7,04 triệu đồng một tháng, khối doanh nghiệp FDI chỉ là 5,47 triệu đồng, tư nhân là 4,99 triệu đồng.

Đọc tiếp »

Tổng công ty Sông Đà nợ hơn 10.000 tỷ trước cổ phần hóa

Văn phòng Chính phủ vừa có công văn gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kiểm toán Nhà nước về phương án cổ phần hoá của Tổng công ty Sông Đà.

Văn bản nêu rõ, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng phê duyệt phương án cổ phần hoá cho Tổng công ty Sông Đà. Do đó, để có đủ cơ sở trình Thủ tướng, Văn phòng Chính phủ đề nghị các cơ quan trên nêu ý kiến về phương án mà Bộ Xây dựng nêu.

Cụ thể, Bộ Xây dựng đề xuất cổ phần hoá Tổng công ty Sông Đà theo hướng vừa bán một phần vốn nhà nước, vừa phát hành tăng vốn điều lệ.

Nợ 10.190 tỷ đồng

Theo báo cáo tài chính đến cuối năm 2015, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là 2.645 tỷ đồng nhưng nợ phải trả lên tới 10.190 tỷ đồng, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu vượt 3,8 lần.

Do đó, Bộ Xây dựng đề xuất tăng vốn điều lệ lên mức 4.500 tỷ đồng sẽ góp phần giảm tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu về mức hợp lý hơn. Đồng thời đảm bảo việc trả cổ tức là 3% trong những năm sau khi được cổ phần hoá.

Hiện Tổng công ty Sông Đà chiếm khoảng 85% thị phần trong nước về xây dựng thủy điện, sắp tới sẽ triển khai sang Lào, Campuchia. Vì vậy, Bộ Xây dựng cho rằng mức vốn nhà nước nắm giữ sau cổ phần hoá là 51%, sau đó sẽ có lộ trình giảm xuống 36% trong những năm tiếp theo, tuỳ nhu cầu vốn trong từng thời điểm.

Cụ thể, Tổng công ty Sông Đà sẽ phát hành 450 triệu cổ phần, giá khởi điểm 10.000 đồng. Trong đó, Nhà nước nắm giữ 51%, đến năm 2020 giảm xuống 36%. Số bán ưu đãi cho người lao động chiếm khoảng 0,18%. Còn lại 30% bán cho nhà đầu tư chiến lược, số cổ phần bán đấu giá công khai là 18,82%.

Tiêu chí chọn nhà đầu tư chiến lược là cam kết mua tối thiểu 5% vốn điều lệ tương ứng khoảng 225 tỷ đồng tính theo mệnh giá. Nhà đầu tư phải có chiến lược, có năng lực, trình độ công nghệ cao, có uy tín, thương hiệu, có kinh nghiệm quản trị, kinh doanh trong lĩnh vực điện, xây lắp, bất động sản.

Nhóm nhà đầu tư chiến lược tài chính là các tổ chức tín dụng ngân hàng có thương hiệu, uy tín trên thị trường, năng lực tài chính dài hạn.

Đặc biệt, nhà đầu tư chiến lược phải có tổng tài sản tối thiểu 1.000 tỷ đồng vào năm 2015. Vốn chủ sở hữu là 300 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế dương, không có nợ xấu, có đủ vốn góp lớn hơn số cổ phần mua.

Sau cổ phần, công ty lên kế hoạch doanh 2.890 tỷ đồng doanh thu và lợi nhuận trước thuế là 160 tỷ đồng trong năm 2016.

Giá trị doanh nghiệp là 18.502 tỷ đồng

Tổng công ty Sông Đà có nhiều kiến nghị kèm theo phương án cổ phần hoá. Cụ thể, Tổng công ty đề nghị được áp dụng phương pháp xác định lại các khoản đầu tư dài hạn chưa niêm yết tính bằng giá trị sổ sách trừ đi khoản trích lập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính.

"Bộ Xây dựng kiến nghị xác định lại khoản đầu tư dài hạn chưa niêm yết bằng giá trị sổ sách trừ đi các trích lập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính để bảo toàn vốn doanh nghiệp. Tuy nhiên, Nghị định 116, chưa quy định cụ thể dẫn đến một số khoản đầu tư chưa niêm yết trên sàn chứng khoán khi xác định lại theo phương pháp vốn chủ sở hữu bị mất vốn, thậm chí có khoản đầu tư được xác định bằng 0", văn bản nêu.

Theo kế hoạch ban đầu, Tổng công ty dự định bán cổ phần lần đầu ra công chúng vào tháng 7/2016 nhưng kế hoạch đã bị chậm trễ.

Bộ Xây dựng cho rằng đây là doanh nghiệp lớn với nhiều dự án, nhà máy, tài sản ở nhiều nơi do vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp cần lấy ý kiến nhiều bên, đảm bảo chính xác. Sau thời gian dài định giá, giá trị doanh nghiệp tại thời điểm xác định cổ phần hoá là 18.502 tỷ đồng, phần vốn nhà nước đạt 4.438 tỷ.

Năm 2010, Thủ tướng có quyết định số 52 về việc thí điểm thành lập Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam và Quyết định số 53 về việc thành lập Tập đoàn Sông Đà trên cơ sở tổ chức lại bộ máy quản lý, điều hành, tham mưu giúp việc.

Các đơn vị phụ thuộc của Tổng công ty Sông Đà và tiếp nhận, quản lý 100% giá trị phần vốn Nhà nước thuộc Tổng công Lắp máy (Lilama), Tổng công ty Xây dựng và Phát triển Hạ tầng (Licogi), Tổng công ty Cơ khí Xây dựng (DIC) và Tổng công ty Cổ phần Sông Hồng.

Do đó, Tổng công ty đã ký kế với MCKinsey&Company và hãng kiểm toán KPMG và Invest Consult Group hợp đồng tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp là 4,9 triệu USD cho cả 5 doanh nghiệp trên.

Vì vậy, Tổng công ty đề nghị loại bỏ chi phí tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp là 47,7 tỷ đồng và không tính vào giá trị tài sản doanh nghiệp do đây là khoản tiền chi phí tư vấn cho 5 doanh nghiệp trên.

Trước đó, tại hội nghị Sơ kết thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm, lãnh đạo Bộ Xây dựng đã điểm danh một số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, trong đó có Tổng công ty Sông Đà.

Đọc tiếp »

Tổng công ty Đường sắt xin tạm ứng 471 tỷ đồng để trả nợ

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) vừa có công văn gửi Thủ tướng báo cáo về việc nợ tiền các nhà thầu.

Cụ thể, VNR là chủ đầu tư các công trình xây dựng 3 cầu Đồng Nai, Tam Bạc, Thị Cầu. Các công trình này đã hoàn thành từ quý II/2013.

Tuy nhiên, đến nay VNR vẫn đang nợ 471 tỷ đồng các nhà thầu thi công. Tình hình các nhà thầu hiện đang rất khó khăn. Nợ lương công nhân, nợ tiền vật tư, nợ chi trả lãi vay ngân hàng phát sinh mỗi năm hơn 45 tỷ đồng tiền lãi (mỗi tháng gần 4 tỷ đồng).

"Công việc những năm qua lại vô cùng khó khăn dẫn đến các nhà thầu có nguy cơ đóng tài khoản, nếu tiếp tục kéo dài sẽ phải dừng hoạt động", VNR nêu.

Các nhà thầu này trước đây trực thuộc tổng công ty nay đã được cổ phần hoá, một số công ty đã thoái hết vốn, số còn lại đang tiếp tục thoái vốn. Vì vậy, việc thanh toán cổ tức, đối chiếu thanh toán nợ với VNR không thực hiện được. Các đơn vị quá khó khăn, không có kinh phí để trả nợ tổng công ty.

Do vậy, VNR kiến nghị thủ tướng cho phép Bộ Giao thông Vận tải ứng trước 471 tỷ đồng hoặc bố trí đủ từ nguồn dự phòng ngân sách năm 2016, để bộ này giao cho đơn vị thanh toán hết cho các nhà thầu.

Trong báo cáo đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, VNR khẳng định ba công trình Đồng Nai, Tam Bạc, Thị Cầu đã hoàn thành năm 2013 và có ý nghĩa đặc biệt về an toàn giao thông đường sắt, đường bộ.

Năm 2015, doanh thu của tổng công ty đạt khoảng 2.657 tỷ đồng, giảm một nửa so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế đạt 93 tỷ đồng. Nhiều năm nay, ngành đường sắt ì ạch, chậm phát triển.

"Hiện nay các loại hình vận tải như hàng không, đường bộ, đường biển…đang được đầu tư lớn, hệ thống đường bộ cao tốc mở rộng trên toàn quốc, điều này đã thu hút một phần lượng hành khách từ đường sắt chuyển sang", tổng công ty nêu đồng thời khẳng định: với đặc thù ngành nên nhu cầu sử dụng vốn rất lớn.

Vừa qua, Thanh tra Chính phủ cũng công bố kết luận thanh tra đối với VNR với những đoàn đi nước ngoài lên tới con số 188, chi gần 14 tỷ đồng, trong đó có 23 đoàn đi mà không có hợp đồng với đối tác hay văn bản mời...

Đọc tiếp »

5,6 triệu hộ kinh doanh sẽ được hỗ trợ lập doanh nghiệp

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Đoạn cuối một giấc mơ xe hơi "made in Vietnam"

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Cáp treo Bà Nà sắp lên sàn

Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) cho biết đã nhận được hồ sơ đăng ký niêm yết lần đầu của Công ty Cổ phần Dịch vụ Cáp treo Bà Nà (Banacab).

Theo đó, Cáp treo Bà Nà sẽ niêm yết 216,4 triệu cổ phiếu, giá trị tương ứng 2.164 tỷ đồng theo mệnh giá.

Cáp treo Bà Nà được thành lập từ năm 2007, có ngành nghề kinh doanh chủ yếu là hệ thống cáp treo, máng trượt, nhà hàng, khách sạn…

Kể từ khi đi vào hoạt động, Cáp treo Bà Nà đã tăng vốn điều lệ từ 50 tỷ lên 2.164 tỷ đồng. Mức tăng mạnh do nhu cầu đầu tư các dự án lớn về cáp treo.

Cổ đông lớn nhất của công ty là ông Lê Viết Lam, hiện nắm 83,46 triệu cổ phiếu - tương ứng 38,57%. Tập đoàn Mặt Trời (Sungroup) nắm giữ khoảng 7,15% vốn tương ứng khoảng 7,15%. Một cổ đông cá nhân khác là ông Mạnh Xuân Thuận nắm giữ tới 73,6 triệu cổ phiếu - tương ứng 34% vốn của công ty.

6 tháng đầu năm 2016, Cáp treo Bà Nà đạt doanh thu 728 tỷ đồng, lãi 201 tỷ đồng. Tổng tài sản đạt hơn 5.200 tỷ đồng.


Năm 2015, công ty đạt doanh thu 1.014 tỷ đồng - tăng 66,7%, lợi nhuận sau thuế là 129,5 tỷ đồng - tăng 136% so với năm 2014.
Đọc tiếp »

SCIC sẽ bán 9% cổ phần Vinamilk trong năm nay

Chiều 23/9, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) có thông tin sơ bộ về kế hoạch thoái vốn tại 10 doanh nghiệp lớn, với trọng tâm thực hiện đầu tiên là tại Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam - Vinamilk (mã VNM-HOSE).

Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Đức Chi, Chủ tịch Hội đồng Thành viên SCIC, cho biết, theo kế hoạch, ngay trong tháng 9 này Tổng công ty sẽ thực hiện thuê tổ chức tư vấn, chuẩn bị triển khai kế hoạch thoái vốn tại Vinamilk.

Sẽ có tổ chức tư vấn quốc tế và trong nước tham gia kế hoạch này, theo như tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; tư vấn tổng thể kế hoạch thoái vốn, xác định giá khởi điểm, các thủ tục pháp lý…

Theo Chủ tịch SCIC, Tổng công ty sẽ thực hiện thoái 9% cổ phần VNM đợt đầu thay vì 10% như thông tin đề cập gần đây. Sau khi lựa chọn tổ chức tư vấn hoặc liên danh tư vấn, dự kiến khoảng tháng 11 sẽ tiến hành xác định giá khởi điểm, và kế hoạch thoái vốn nói trên sẽ được thực hiện ngay trong năm 2016.

Hiện SCIC đang nắm 44,7% cổ phần Vinamilk. Theo lãnh đạo SCIC, 9% bán trong đợt đầu là khối lượng đủ lớn để hấp dẫn nhà đầu tư, được chào bán công khai cho nhà đầu tư trong và ngoài nước; giá khởi điểm dự kiến sẽ không thấp hơn giá thị trường tại cùng thời điểm và dựa trên cơ sở định giá của tổ chức tư vấn.

“Chúng tôi quyết tâm kết thúc giao dịch này trong năm 2016. Sau khi bán 9% cổ phần Vinamilk, SCIC sẽ tiếp tục đánh giá rút kinh nghiệm, tính toán để báo cáo các cấp có thẩm quyền”, ông Chi nói.

Ngoài Vinamilk, 9 trong số 10 doanh nghiệp lớn mà SCIC đang đại diện phần vốn Nhà nước dự kiến cũng sẽ có kế hoạch thoái vốn cụ thể trong năm 2017, bao gồm: FPT, FPT Telecom, Bảo hiểm Bảo Minh, Tổng công ty Tái bảo hiểm quốc gia, Cơ khí và Khoáng sản Hà Giang, Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong, Công ty Hạ tầng và Bất động sản Việt Nam, Nhựa Bình Minh và Công ty Xuất nhập khẩu Sa Giang.

Đọc tiếp »

Techcombank chính thức có tân Tổng giám đốc

Ngày 23/9, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) đã bổ nhiệm ông Nguyễn Lê Quốc Anh vào chức vụ Tổng giám đốc của ngân hàng.

Phát biểu trong ngày đầu giữ vị trí Tổng giám đốc Techcombank, ông Nguyễn Lê Quốc Anh chia sẻ: “Tôi luôn mong muốn được mang những kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn tích lũy được ở các tổ chức và tập đoàn hàng đầu thế giới về xây dựng doanh nghiệp Việt lớn mạnh.

Ước mơ này đã được hiện thực hóa khi tôi làm việc và cống hiến cho Techcombank - một ngân hàng Việt Nam lớn mạnh, với nhiều tiềm năng phát triển. Tôi cùng Ban điều hành ngân hàng luôn kiên định sẽ nỗ lực tối đa đưa Techcombank ngày càng phát triển, và hướng tới mục tiêu trở thành ngân hàng tầm cỡ khu vực”.

Ông Nguyễn Lê Quốc Anh gia nhập Techcombank từ tháng 5/2015 với vị trí Giám đốc Khối chiến lược và phát triển. Đầu năm 2016, ông được bổ nhiệm vị trí Phó tổng giám đốc phụ trách điều hành ngân hàng trước khi chính thức nhận chức Tổng giám đốc Techcombank ngày 23/9.

Techcombank cho biết, trong thời gian này, ông Nguyễn Lê Quốc Anh đã góp phần tạo nên nhiều thành công về kinh doanh, phát triển nhân lực và nâng tầm thương hiệu của Ngân hàng.

Tính đến hết 31/8/2016, Techcombank đã đạt lợi nhuận trước thuế ở mức 2.836 tỷ đồng, hoàn thành 80% kế hoạch lợi nhuận năm 2016. Đồng thời, ngân hàng đã kiểm soát chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động với tỷ trọng chi phí trên thu nhập ở mức 32,34% cho 8 tháng đầu năm 2016.

Ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Techcombank cho biết: “Sau 6 tháng đảm nhiệm vị trí Phó tổng giám đốc phụ trách điều hành, ông Nguyễn Lê Quốc Anh đã chứng tỏ được năng lực và khả năng tiên phong, dẫn dắt ngân hàng triển khai nhiều sáng kiến đổi mới, tạo đà bứt phá mạnh mẽ trong thời gian tới.

Tôi tin tưởng rằng, với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính và quản trị ngân hàng quốc tế, đặc biệt với đam mê cống hiến để phát triển thành công một doanh nghiệp Việt vươn tầm quốc tế, ông Nguyễn Lê Quốc Anh sẽ dẫn dắt Techcombank hoàn thành xuất sắc mục tiêu chiến lược của ngân hàng, từ đó, mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng và cổ đông"

Ông Nguyễn Lê Quốc Anh là chuyên gia trong các lĩnh vực: Thiết lập tư duy chiến lược, quản lý dự án, phân tích kinh doanh và xây dựng mô hình kinh doanh hiệu quả, chiến lược kinh doanh và marketing, xây dựng kiến trúc hệ thống công nghệ.

Trước khi đến với Techcombank, ông từng giữ các vị trí cao cấp tại các tổ chức lớn tại Mỹ như T-Mobile US, Wells Fargo Bank, Nissan USA, Fortress Investment Group, McKinsey & Co, Viện Nghiên cứu Quốc gia Argonne, Pacific Gas & Electric Co và nhiều tổ chức quốc tế khác.

Đọc tiếp »

Bia Sài Gòn đem gần 8.200 tỷ đồng đi gửi ngân hàng lấy lãi

Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) vừa công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2016. Theo đó, doanh thu công ty mẹ đạt 14.322 tỷ đồng.

Đặc biệt, Sabeco có lượng tiền mặt gần 8.200 tỷ đồng gửi ngân hàng với kỳ hạn không quá 3 tháng, hưởng lãi suất 5,5 -6,2% một năm. Trong đó, có khoản 1.165 tỷ đồng gửi tại các ngân hàng thương mại có kỳ hạn trên 3 tháng, hưởng lãi suất 6,2-7,2% một năm. Trong kỳ công ty cũng ghi nhận doanh thu tài chính đạt 678 tỷ đồng.

Theo báo cáo tài chính, Sabeco có khoảng 4.076 tỷ đồng đầu tư vào công ty con, công ty liên kết. Tuy nhiên, công ty đã phải trích lập khoảng 490 tỷ đồng dự phòng.

Đặc biệt, hai khoản đầu tư gây thua lỗ cho Bia Sài Gòn là đầu tư 216 tỷ đồng vào Ngân hàng Thương mại Phương Đông (OCB) - hiện đã thua lỗ và trích lập dự phòng khoảng 158 tỷ đồng. Khoảng đầu tư 136 tỷ đồng vào Ngân hàng Thương mại Đông Á (DongABank) cũng khiến công ty đang phải hạch toán lỗ và trích lập tới 111 tỷ đồng.

Ngoài ra, tổng công ty còn đầu tư ngoài ngành không hiệu quả vào một số doanh nghiệp khác như: Quỹ đầu tư Việt Nam, Quỹ đầu tư Chứng khoán Sài Gòn A2, PVI Sài Gòn, Du lịch dầu khí Phương Đông,…

Dù các chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí quảng cáo, khuyến mại không có nhiều thay đổi song lợi nhuận của Sabeco vẫn không tăng trưởng nhiều. Kết thúc 6 tháng đầu năm, lợi nhuận sau thuế của Sabeco tăng nhẹ lên mức 1.971 tỷ đồng.

Sabeco là hãng bia Việt lớn nhất hiện nay với tổng tài sản 18.130 tỷ đồng, Nhà nước đang nắm giữ 89,59% vốn và đã có kế hoạch thoái. Mới đây, hãng bia cũng gặp lùm xùm chuyện bổ nhiệm nhân sự Phó tổng giám đốc Vũ Quang Hải - con trai của nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng. Từ cuối tháng 10/2015, doanh nghiệp cũng có tân Chủ tịch khi ông Võ Thanh Hà thay ông Phan Đăng Tuất.

Báo cáo của Hiệp hội Bia rượu Nước giải khát Việt Nam (VBA) cho biết, năm 2015, sản lượng sản xuất và tiêu thụ bia ở Việt Nam đạt 3,4 tỷ lít, tăng 10% so với năm trước và gần 41% so với 2010. Trong đó, riêng Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) đạt 1,5 tỷ lít, số còn lại thuộc về các doanh nghiệp khác.

Được biết, nửa đầu năm 2016, ngành bia phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là áp dụng cách tính mới tại cơ sở bán ra và tăng thuế tiêu thụ đặc biệt 5% tác động đến giá thành bia. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ bia vẫn vượt 1,5 tỷ lít.

Trong khi, tại các nước phát triển như Tây Âu, Nhật Bản… tiêu thụ bia có xu hướng giảm thì Việt Nam được coi là thị trường màu mỡ cho các hãng bia nước ngoài như Heineken, Tiger, Carlsberg.

Cuộc cạnh tranh thị phần ngày càng quyết liệt khi Bia Sài Gòn vẫn giữ vị thế song khoảng cách đã bị thu hẹp. Đặc biệt, dù doanh thu và sản lượng tiêu thụ giữ vị trí số 1 nhưng lợi nhuận của Sabeco đã bị Heineken vượt qua.

Đọc tiếp »

Vinh danh 105 doanh nghiệp tại The Guide Awards 2016

Căn cứ giữa kết quả bình chọn, đánh giá của độc giả gửi tới ấn phẩm, kết hợp với công tác tác nghiệp và khảo sát thực tế của ban biên tập The Guide, cũng như thu thập nhiều nguồn thông tin khác đặc biệt qua mạng Internet và các phương tiện truyền thông mới, Ban biên tập The guide đã quyết định lựa chọn 105 doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở du lịch và dịch vụ du lịch đạt The Guide Award lần thứ 17, trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là Khách sạn (38 đơn vị), Khu nghỉ dưỡng (31 đơn vị), lữ hành (14 đơn vị) và khối nhà hàng, spa và các dịch vụ du lịch khác - Ảnh: Việt Tuấn.

Căn cứ giữa kết quả bình chọn, đánh giá của độc giả gửi tới ấn phẩm, kết hợp với công tác tác nghiệp và khảo sát thực tế của ban biên tập The Guide, cũng như thu thập nhiều nguồn thông tin khác đặc biệt qua mạng Internet và các phương tiện truyền thông mới, Ban biên tập The guide đã quyết định lựa chọn 105 doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở du lịch và dịch vụ du lịch đạt The Guide Award lần thứ 17, trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là Khách sạn (38 đơn vị), Khu nghỉ dưỡng (31 đơn vị), lữ hành (14 đơn vị) và khối nhà hàng, spa và các dịch vụ du lịch khác - Ảnh: Việt Tuấn.

Đọc tiếp »

Góc nhìn: Cần lý trí hơn về dự án thép của Hoa Sen

Tập đoàn Hoa Sen mới đây đã được Ninh Thuận chấp nhận về chủ trương đầu tư một tổ hợp dự án khu liên hợp luyện cán thép tại Cà Ná, với tổng công suất thiết kế trong giai đoạn đến năm 2022 là 6 triệu tấn thép, và nâng lên 16 triệu tấn đến năm 2031.

Theo Hoa Sen, trong giai đoạn 2017-2018, dự án sẽ triển khai xây dựng và đưa vào khai thác với công suất 1,5 triệu tấn thép/năm, tổng vốn đầu tư 460 triệu USD. Dự án cũng gồm xây dựng cảng nước sâu và bến chuyên dụng để tiếp nhận tầu có trọng tải tới 300.000 DWT.

Khi mới được công bố, dự án này đã lập tức nhận được nhiều ý kiến trái chiều, chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như: công nghệ và thiết bị sản xuất có khả năng gây ô nhiễm môi trường, nguồn cung thép trong nước đã dư thừa, ngành thép là một ngành có công nghệ cũ hàng thế kỷ nên không nên làm thép nữa mà thay vào đó là sản xuất thép hợp kim cao cấp, và nguồn vốn ở đâu để thực hiện dự án lớn như vậy?...

Trước tiên, hãy đề cập đến vấn đề gây ô nhiễm môi trường.

Cần thẳng thắn thừa nhận là là dù có giữ gìn cẩn thận đến đâu thì mọi dự án sản xuất gang thép đều gây ô nhiễm ở một mức độ nào đó, không là nước thải thì là khói bụi, khí thải. Vấn đề là, mức độ ô nhiễm này phải trong các hạn mức cho phép được quy định trong các bộ tiêu chuẩn quy phạm về bảo vệ môi trường của quốc gia.

Nếu dự án Hoa Sen được thiết kế, xây dựng và vận hành tuân thủ theo các tiêu chuẩn quy phạm này (của Việt Nam) thì sẽ không có vấn đề gì đáng nói ở đây. Nhưng dư luận lo ngại, dự án thép này của Hoa Sen sẽ lại như một dự án thép Formosa thứ hai ở Việt Nam, nên tốt nhất là… tránh đi, không làm nữa!

Lo ngại trên hoàn toàn có thể thông cảm được, nếu nhìn từ vụ việc Formosa. Nhưng, nếu cứ lấy Formosa để làm bài học và rút ra kết luận rằng mọi dự án thép đều sẽ hủy hoại môi trường tương tự như vậy, là vô lý.

Bởi vấn đề với Formosa là họ cố tình không tuân thủ các quy định về môi trường của Việt Nam, chứ không phải vấn đề là họ sản xuất thép nên mới gây ô nhiễm như vậy.

Trên thế giới, ngay tại các nước OECD như Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, và châu Âu, hiện vẫn đang có nhiều dự án phức hợp luyện cán thép có công suất và sản lượng lên tới hàng chục triệu tấn/năm như ArcelorMittal (97 triệu tấn năm 2015), Nippon Steel and Sumitomo Metal (46 triệu tấn), POSCO (42 triệu tấn), JFE Steel (30 triệu tấn), Hyundai Steel (20 triệu tấn), Nucor (20 triệu tấn), ThyssenKrupp (17 triệu tấn), US Steel (15 triệu tấn)…

Và đương nhiên là tiêu chuẩn môi trường và các chế tài áp dụng để giám sát tuân thủ tiêu chuẩn môi trường của các doanh nghiệp sản xuất thép ở những nước và khu vực này không thể thấp hơn ở Việt Nam.

Các dự án thép khổng lồ này vẫn hoạt động từ nhiều năm nay ở đó, chứng tỏ sản xuất thép, kể cả ở quy mô khổng lồ, đã và đang không phải là “sát thủ” môi trường, như dư luận ở Việt Nam đang quy kết một cách bất công cho các dự án thép nói chung, và của Hoa Sen nói riêng.

Bởi vậy, việc cần phải làm với dự án Hoa Sen không phải là “bàn lùi”, can ngăn, cản trở để họ không đầu tư nữa, mà phải là đảm bảo rằng họ sẽ không tạo ra một Formosa thứ hai bằng cách cố tình phớt lờ các tiêu chuẩn quy phạm môi trường, khi đi vào sản xuất sau này.

Bằng cách nào thì câu trả lời nằm ở phía các cơ quan chức năng của Việt Nam, được trang bị đầy đủ các công cụ và quyền hạn thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường.

Thứ hai, về chuyện dư thừa công suất sản xuất thép trong nước, tình trạng này là một thực tế hiện nay ở Việt Nam. Nhưng cần biết rằng trong tổng công suất lắp đặt khoảng 20-25 triệu tấn hiện nay ở Việt Nam, có một tỷ trọng lớn là từ các nhà máy sản xuất quy mô nhỏ và rất nhỏ (dưới 500 nghìn tấn).

Đến như Hòa Phát, nhà sản xuất thép lớn nhất Việt Nam hiện nay với thị phần khoảng 12% thị trường thép ở Việt Nam (Hòa Phát tiêu thụ gần 1 triệu tấn thép xây dựng và thép ống trong nửa đầu năm nay, so với tổng mức tiêu thụ của cả nước là 8,5 triệu tấn, theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam) mà doanh nghiệp này cũng chỉ có công suất lắp đặt là khoảng 2 triệu tấn.

Do đó, sự ra đời của những dự án “khủng” như của Hoa Sen với sản xuất tích hợp từ thượng nguồn (sản xuất thép thô từ quặng sắt và than cốc bằng lò cao) đến hạ nguồn (thép cuộn, cán, hình) có hiệu quả cao chắc chắn sẽ tăng áp lực cạnh tranh lên sản xuất thép trong nước, buộc nhiều nhà máy và dự án thép (hiện có và sẽ ra đời trong tương lai) không có hiệu quả sẽ phải đóng cửa hoặc rút lại ý định đầu tư.

Nói cách khác, dự án thép Hoa Sen sẽ giúp tái cơ cấu lại ngành sản xuất thép ở Việt Nam theo hướng hiệu quả hơn, tương tự như xu thế chung trên thế giới, đặc biệt ở những nước như Trung Quốc, vốn đang diễn ra làn sóng sát nhập, hợp nhất và đóng cửa nhiều nhà máy sản xuất thép nhỏ, không hiệu quả, gây ô nhiễm… dưới bàn tay đạo diễn của nhà nước.

Do đó, khi dự án Hoa Sen đi vào hoạt đông thì ngành thép Việt Nam sẽ có thêm đáng kể công suất gia tăng, nhưng đồng thời cũng sẽ có thêm đáng kể công suất mất đi từ những nhà máy đang tồn tại, nên rốt cuộc tình trạng dư thừa cung chắc sẽ không trầm trọng thêm.

Thứ ba, trên danh nghĩa đúng là Việt Nam đang dư thừa năng lực sản xuất thép, nhưng nhìn sâu vào cơ cấu sản xuất, thì thấy dư thừa là ở phân khúc thép xây dựng, chứ không phải thép tấm, thép cuộn cán nóng. Có thể nói Việt Nam hiện phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu thép tấm, cuộn cán nóng để sản xuất các sản phẩm thép cán nguội như tôn, thép công nghiệp (đồ điện gia dụng), nhất là thép ôtô và đóng tầu…

Ngoài ra, Việt Nam cũng thiếu hụt năng lực sản xuất thép ống không hàn và các loại thép đặc biệt, thép hình khác. Điều này lý giải, tại sao Việt Nam vẫn phải nhập nhiều triệu tấn thép/năm, vì trong đó có một phần lớn là các sản phẩm thép mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được này.

Trong khi đó, cơ cấu sản phẩm của dự án Hoa Sen rất đa dạng, từ thép xây dựng đến thép tấm cán nóng và thép hình, tức là sẽ bổ khuyết một phần quan trọng cho sự thiếu hụt trong nước, không chỉ không lo dư thừa công suất mà không còn lo phải nhập siêu lớn trong ngành này.

Cộng thêm với sự tồn tại và sản xuất của Formosa, sự tái cơ cấu ngành thép ở Việt Nam (lưu ý là Formosa cũng sản xuất nhiều loại sản phẩm mà trong nước chưa đáp ứng được) sẽ càng diễn ra mạnh hơn theo chiều hướng tích cực hơn.

Ngược lại, với sự đối trọng của dự án thép Hoa Sen, Formosa sẽ phải tìm cách cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường trong nước, và thậm chí phải tìm cách xuất khẩu nhiều hơn nếu không muốn đối mặt với sự cạnh tranh trở nên gay gắt hơn ở trong nước.

Thứ tư, đúng là công nghệ sản xuất thép hiện đã định hình gần như hoàn chỉnh, ít có thêm đột phá công nghệ nên vì thế cũng có thể coi là ngành có công nghệ bình thường, không có gì đáng hấp dẫn về mặt công nghệ như những ngành công nghệ cao khác hiện đại khác. Nhưng, Hoa Sen là một tập đoàn tư nhân nên quyết định đầu tư vào ngành thép của họ là xuất phát từ những tính toán thiệt hơn về lợi nhuận, chứ không xuất phát từ sự bốc đồng, có động cơ chính trị, xã hội, hay vụ lợi như với một số dự án đầu tư công.

Với họ, câu hỏi liệu công nghệ mới hay không, nên sản xuất thép thường hay thép hợp kim cao cấp không quan trọng bằng câu hỏi có tối đa hóa được lợi nhuận cho cổ đông của mình hay không. Nếu họ tính toán thấy rằng đầu tư vào dự án phức hợp thép đem lại lợi nhuận tốt thì hãy để họ làm và nên ủng hộ họ, tất nhiên với điều kiện là họ phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật.

Ngoài ra, về lo ngại Hoa Sen sẽ sử dụng công nghệ của Trung Quốc, thì cũng cần tham khảo tình hình quốc tế.

Mới hôm trước (ngày 27/8), chính quyền bang Sarawak, Malaysia ký kết bản ghi nhớ với tập đoàn thép Hebei Xinwuan và công ty MCC Overseas (đều của Trung Quốc) về nghiên cứu khả thi cho một dự án thép phức hợp có công suất tới 5 triệu tấn thép mạ, 1 triệu tấn thép cuộn cán nguội, và 1 triệu tấn ống thép hàn với tổng vốn đầu tư khoảng 3 tỷ USD.

Điều này cho thấy công nghệ Trung Quốc không nhất thiết là “đồ bỏ”, và thực tế là những doanh nghiệp thép lớn của Trung Quốc có tính cạnh tranh toàn cầu, đẩy không ít doanh nghiệp thép lớn nhỏ của thế giới vào tình trạng khốn đốn.

Cuối cùng, nguồn vốn cho dự án, nếu đầu tư đầy đủ để đạt công suất 16 triệu tấn vào năm 2031, được ước tính lên tới hơn chục tỷ USD, làm cho nhiều người e ngại tính khả thi. Nhưng cần lưu ý rằng, dự án này trải qua nhiều giai đoạn, với công suất lắp đặt tăng dần, nên nhu cầu vốn cũng sẽ rải ra trong một khoảng thời gian nhiều năm.

Thêm nữa, như đã nói, Hoa Sen là một tập đoàn tư nhân và khi quyết định đầu tư, đầu tư bao nhiêu thì họ đã tính toán và lượng sức mình, sức thị trường vốn để ra quyết định đầu tư. Kể cả trong trường hợp xấu, quyết định đầu tư của họ chỉ gây thiệt hại cho cổ đông của họ, chứ không gây thiệt hại, ảnh hưởng mấy đến quốc dân như với những dự án đầu tư bằng vốn Nhà nước.

Bởi vậy, chuyện thu xếp vốn cũng là quyền và là chuyện riêng của Hoa Sen, xin đừng bận tâm hộ cho họ!

Đọc tiếp »

Ông chủ Zara đoạt ngôi giàu nhất thế giới của Bill Gates

Tỷ phú ngành bán lẻ thời trang Tây Ban Nha Amancio Ortega, nhà sáng lập thương hiệu Zara, ngày 8/9 đã vượt qua “ông trùm” công nghệ người Mỹ Bill Gates để trở thành người giàu nhất thế giới trong xếp hạng của Forbes.

Tạp chí này cho biết giá cổ phiếu của tập đoàn Inditex - hãng mẹ của các thương hiệu thời trang Zara, Massimo Dutti, và Pull&Bear - tăng 2,5% trong phiên giao dịch cùng ngày, nâng giá trị tài sản ròng của Ortega thêm 1,7 tỷ USD. Nhờ đó, khối tài sản của vị tỷ phú này nhảy từ 77,8 tỷ USD lên 79,5 tỷ USD.

Theo số liệu của Forbes, Gates - nhà sáng lập hãng phần mềm lớn nhất thế giới Microsoft - hiện là chủ nhân của khối tài sản ròng ước tính khoảng 78,5 tỷ USD.

Là con trai của một công nhân đường ray ở La Coruna, Tây Ban Nha, Ortega có cuộc sống bình dị và khép kín. Ông khởi nghiệp với nghề nhân viên bán hàng ở thị trấn quê nhà trước khi kinh doanh riêng. Bắt đầu với số vốn chưa đầy 100 USD, Ortega cùng người vợ đầu tiên là Rosalia Mera sản xuất đồ lót, đồ ngủ và những bộ trang phục dạ hội ngay trong phòng khách ở nhà.

Năm 1975, cặp vợ chồng quyết định mở một cửa hiệu mang tên Zara. 8 năm sau, Ortega mở rộng thương hiệu với 9 địa điểm trên khắp Tây Ban Nha. Năm 1984, ông mở một kho hàng rộng hơn 900 mét vuông.

Không giống như hầu hết các nhà bán lẻ khác, Inditex không phụ thuộc vào quảng cáo. Thay vào đó, Ortega dồn phần lớn nguồn lực để biến công ty của mình thành nhà bán lẻ hoạt động hiệu quả nhất thế giới.

Hồi đầu thập niên 2000, trong khi những đối thủ như Gap và H&M mất tới 5 tháng để thiết kế, sản xuất, phân phối và bán sản phẩm mới, Zara chỉ mất 3 tuần để thực hiện các công đoạn này. Điều này đồng nghĩa với việc các công ty của Ortega có thể đáp ứng các xu hướng thời trang nhanh chóng hơn so với các hãng thời trang khác, đồng thời phải chi ít tiền hơn cho việc giữ hàng trong kho.

Ortega đưa Inditex thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), trở thành công ty đại chúng vào năm 2001. Cùng năm đó ông lần đầu tiên xuất hiện trong danh sách những người giàu nhất thế giới của Forbes với khối tài sản ròng 6,6 tỷ USD. Vào thời điểm đó, Bill Gates đã là người giàu nhất thế giới, sở hữu tài sản ròng 58,7 tỷ USD.

Từ năm 2001-2002, khi hầu hết các tỷ phú bị mất tiền vì bong bóng công nghệ nổ tung, tài sản của Ortega tăng thêm 2,5 tỷ USD và ông nhảy lên vị trí người giàu thứ 25 thế giới.

Bảy năm sau đó, ông lại có những bước nhảy vọt trong xếp hạng tỷ phú giữa lúc thế giới chìm trong khủng hoảng tài chính.

Từ năm 2009-2013, khi kinh tế Tây Ban Nha lâm khủng hoảng nợ và suy thoái, tài sản cá nhân của Ortega tăng thêm 39 tỷ USD.

Vào tháng 10/2015, đã có thời điểm Ortega lần đầu tiên soán ngôi giàu nhất thế giới. Khi đó, giá cổ phiếu Inditex đạt mức cao chưa từng có, đẩy giá trị tài sản ròng của ông lên 80 tỷ USD. Tuy nhiên, giá cổ phiếu này đã giảm trở lại, và Gates trở lại “ngôi vương” của xếp hạng giàu.

Forbes nói rằng, Gates và Ortega sẽ còn thay nhau nắm giữ vị trí người giàu nhất thế giới trong thời gian tới, khi mà giá cổ phiếu các công ty họ nắm giữ có sự thay đổi.

Tuy nhiên, trong xếp hạng của hãng tin tài chính Bloomberg, Gates hiện vẫn là người giàu nhất thế giới. Dữ liệu từ Bloomberg Billionaires Index tính đến cuối ngày 8/9 theo giờ Mỹ cho thấy Gates hiện có tài sản ròng ở mức 89,7 tỷ USD, so với mức 79,2 tỷ USD của Ortega.

Theo Forbes, đến nay, Gates đã tài trợ gần 31 tỷ USD dưới dạng cổ phiếu và tiền mặt cho hoạt động từ thiện. Nếu Gates không làm từ thiện nhiều như vậy, thì khó ai có thể soán ngôi giàu của ông.

Đọc tiếp »

Ba bộ cùng EVN “lờ” kết luận thanh tra

Thanh tra Chính phủ vừa có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ kết quả kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về việc sử dụng vốn, tài sản tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Điểm đáng chú ý trong báo cáo của Thanh tra Chính phủ là có khá nhiều kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra cũng như chỉ đạo của Thủ tướng trước đó đã không được EVN cùng 3 bộ: Công Thương, Tài chính và Xây dựng thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ.

Theo Thanh tra Chính phủ, sau khi cơ quan này chỉ ra hàng loạt khuyết điểm, vi phạm của EVN trong công tác quản lý tài chính, công tác sản xuất kinh doanh điện, thay vì đôn đốc EVN thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của thanh tra, thì cả 3 bộ có liên quan nói trên vẫn khá “thờ ơ” với những vi phạm đó, dù đã có ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Trương Hòa Bình.

Cụ thể là Bộ Công Thương chưa thực hiện việc rà soát những việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ đối với tổ chức hoạt động của EVN nhằm tháo gỡ những khó khăn, thúc đẩy EVN thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và tái cơ cấu tập đoàn này.

Đồng thời, Bộ cũng chưa tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm về trách nhiệm của Bộ đối với một số tồn tại, khuyết điểm đã nêu tại kết luận thanh tra.

Đáng chý ý, Bộ Công Thương cũng chưa ban hành khung giá phát điện để phù hợp với lộ trình các cấp độ phát triển của thị trường điện; chưa chỉ đạo các Sở Công thương các tỉnh kiểm tra, rà soát điều kiện kinh doanh, an toàn lưới điện và giá bán điện cho người dân tại địa phương do các tổ chức dịch vụ bán lẻ điện năng ngoài EVN bán và đề xuất biện pháp xử lý.

Bộ cũng chưa chỉ đạo Cục Điều tiết điện lực và các cá nhân có liên quan kiểm điểm, xử lý theo thẩm quyền trong việc không thực hiện trong việc trả lời báo cáo giải trình của EVN về giá bán buôn điện bình quân, giá truyền tải điện năng năm 2011.

Đối với Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ xác định có 4 nội dung công việc mà Bộ này chưa thực hiện theo kết luận thanh tra và chỉ đạo của Thủ tướng.

Cụ thể, Bộ Tài chính chưa thực hiện việc rà soát những việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ đối với tổ chức hoạt động của EVN; chưa thực hiện việc tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm về trách nhiệm của Bộ đối với một số tồn tại, khuyết điểm đã nêu trong kết luận thanh tra; chưa đề xuất xử lý số tiền 3,108 tỷ đồng do thẩm định tiền lương của Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc EVN năm 2010 chưa đúng với ý kiến của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng chưa chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng thực hiện việc rà soát khoản chi phí xây dựng nhà ở, nhà quản lý của ngành điện cũng như đối với các nhà máy, khu công nghiệp khác…

Đối với Bộ Xây dựng, Thanh tra Chính phủ khẳng định, Bộ này chưa chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, ban hành định mức xây dựng, tiêu chuẩn, điều kiện sử dụng nhà ở, nhà quản lý vận hành nhà máy điện cũng như các nhà máy, khu công nghiệp khác, đảm bảo tiết kiệm và phù hợp với thực tế các ngành; chưa có hướng dẫn cụ thể về xử lý khoản chi phí xây dựng khu nhà ở, nhà quản lý vận hành chung cho cả nước.

Riêng đối với EVN, Thanh tra Chính phủ khẳng định tập đoàn chưa thực hiện việc thoái vốn ngoài ngành theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tại thời điểm kiểm tra, EVN đang lên kế hoạch thoái vốn tại 7 công ty với giá trị hơn 1.950 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến hết năm 2015, EVN mới thoái được hơn 1.440 tỷ đồng, số còn lại chưa thoái hơn 415 tỷ đồng tại Ngân hàng An Bình, dù đã ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

EVN cùng 6 đơn vị thành viên cũng chưa tổ chức kiểm điểm đầy đủ đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến những tồn tại, khuyết điểm, vi phạm được nêu tại kết luận thanh tra.

Mặt khác, tại 6 Tổng công ty chưa tổ chức kiểm điểm các cá nhân có liên quan đến vi phạm nêu tại Kết luận thanh tra.

Tổng công ty Điện lực Miền Nam (EVN SPC) chưa thực hiện điều chỉnh hoạch toán và về kê khai nghĩa vụ thuế với số tiền 96,8 tỷ đồng. EVN SPC cũng chưa xem xét xử lý giá trị hơn 5,45 tỷ đồng do dừng 7 dự án gây lãng phí.

Tổng công ty Điện lực Miền Bắc (EVN NPC) cũng chưa tổ chức kiểm điểm các cá nhân liên quan đến vi phạm trong chuyển nhượng cổ phần tại công ty cổ phần thủy điện Nho Quế 1.

Với thực tế trên, Thanh tra Chính phủ tiếp tục kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo các bộ ngành nói trên cùng EVN nghiêm túc thực hiện các nội dung còn thiếu sót. Đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành kiểm điểm trách nhiệm tổ chức, cá nhân vì đã để xảy ra các vi phạm đã nêu trong kết luận trước đó.

Đọc tiếp »

Hầu hết doanh nghiệp nhà nước “phớt lờ” công bố thông tin

Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có báo cáo việc thực hiện Nghị định 81/2015 của Chính phủ về việc các tập đoàn, tổng công ty phải công bố thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh theo định kỳ quý/năm.

Theo đó, tính đến 31/7/2015, có 332 doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành, địa phương chưa tiến hành việc công bố thông tin theo chỉ đạo của Chính phủ trước đó.

Đáng chú ý, trong số các doanh nghiệp không thực hiện công bố thông tin hoặc công bố không đầy đủ có các tập đoàn, tổng công ty lớn như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), Tổng công ty Thuốc lá (Vinataba), Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Cà phê (Vinacafe), Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1), Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Thiết bị y tế…

Một số doanh nghiệp viễn thông lớn như: Viettel, MobiFone, Vinaphone... cũng không thực hiện đầy đủ nghị định của Chính phủ.

Có 107 doanh nghiệp có công bố thông tin nhưng thực hiện chưa đầy đủ, thiếu nhiều nội dung phải báo cáo, công bố theo quy định, trong đó có những tập đoàn lớn như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Bưu chính viễn thông (VNPT), Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Hóa chất…

Duy chỉ có 3 doanh nghiệp công bố thông tin đầy đủ là Công ty TNHH Một thành viên Phà An Giang, Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thủy lợi Đà Nẵng và Công ty Xổ số kiến thiết Kon Tum.

Theo Nghị định 81, cả nước có 432 doanh nghiệp Nhà nước có nghĩa vụ công bố thông tin, song mới có 110 đơn vị thực hiện (tính đến 31/7). Thời hạn công bố báo cáo tài chính năm 2015 là 31/5/2016 nhưng đến nay mới có 44 doanh nghiệp thực hiện. Tương tự, việc công khai báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo quản trị cũng có tỷ lệ hoàn thành thấp…

Trước tình trạng các doanh nghiệp Nhà nước chậm hoặc không chịu công bố thông tin, ngày 9/8 vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn do Thứ trưởng Đặng Huy Đông ký, gửi các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế đề nghị thực hiện nghiêm túc việc báo cáo, công bố thông tin theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị định 81/2015.

Đọc tiếp »